Monday, January 2, 2017

Quang Dũng, Một Vần Thơ Bi Tráng Và Lãng Mạn - Trần Thảo



Quang Dũng - một dòng thơ bi tráng và lãng mạn

 
 

     Tôi không nhớ mình đến với thơ của nhà thơ Quang Dũng từ khi nào, nhưng tôi nhớ rõ đó là bài thơ Đôi Mắt Người Sơn Tây của ông, và bài thơ gây ấn tượng mạnh trong tôi ở những câu:

 
Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em nhớ thương.

 
Trước đó, Lưu Trọng Lư với bài thơ Một Mùa Đông, diễn tả "Đôi mắt em lặng buồn, nhìn thôi mà chẳng nói", và sau này với Nguyên Sa "Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình, để anh giận sao chả là nước biển", tôi đã rất thích lối diễn tả đó rồi, nhưng khi chạm với "Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương" thì tôi mới thực sự sửng sốt, bởi vì tôi chưa thấy ai diễn tả đôi mắt một cách tình tứ và linh động như thế. Có lẽ bị ám bởi câu thơ này của nhà thơ Quang Dũng mà trong đời tôi, tôi đặc biệt có cảm tình với những người con gái có màu mắt nâu, lai Tây Phương. Điều thú vị là rất nhiều người đã nghĩ rằng cái nhân vật "em", người có đôi mắt đẹp Tây Phương trong bài thơ ĐMNST, hẳn là một bạn gái tri kỷ nào đó của Quang Dũng, nhưng tất cả đã lầm, bởi chính nhà thơ có lần tiết lộ, đó là hình ảnh của một người em gái rất đẹp trong gia đình của ông.

 Quang Dũng tên thật là Bùi Đình Dậu, sau này vì thiếu tuổi đi học, phải mượn tên của người anh họ là Bùi Đình Diệm. Ông sinh năm 1921 ở làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, Hà Tây. Hà Tây là hai chữ ghép của Hà Đông và Sơn Tây. Hà Đông và Sơn Tây cách nhau bởi con Sông Đáy, chính là địa danh hay xuất hiện trong thơ của ông.

 Quang Dũng là người rất cao lớn, đẹp trai. Nhà văn Xuân Vũ đã diễn tả sự bự con của Quang Dũng bằng một ví von rất vui. Ông Xuân Vũ so sánh "Nếu tôi đứng sắp hàng sau lưng Quang Dũng trong cửa hàng mậu dịch thì chắc chắn cô nàng mậu dịch viên sẽ không thể nào thấy tôi."

 Nhạc sĩ Trịnh Hưng, tác giả của Lối Về Xóm Nhỏ, bạn thiếu thời của Quang Dũng, cho biết Quang Dũng là người đa tài. Thơ nhạc hoạ gì ông cũng giỏi, lại thêm tính tình phóng khoáng, nên bạn bè rất thương mến ông. Trong đời Quang Dũng có hai niềm đam mê, có khi còn hơn cả ham thích thơ nhạc hoạ, đó là thích đi đó đi đây và kết bạn. Điều này giải thích cho việc năm 1941, ông mới 20 tuổi, đã nổi máu giang hồ vặt, nhảy tàu lửa đi tuốt qua bên Quảng Châu, Vân Nam. Không rõ trong một dịp nào mà trong chuyến đi này ông đã gặp những nhân vật đầu não của Đảng Đại Việt như Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Hoàng Đạo, Nguyễn Hải Thần v.v... ở Liễu Châu, tỉnh Vân Nam. Với tính cách của Quang Dũng, chúng ta có thể hiểu được trong đầu óc của chàng thanh niên hai mươi ấy chắc chắn có những suy tư về tình trạng nô lệ của nước nhà dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Chàng tuổi trẻ hào kiệt ấy đâu có biết gì về đảng phái chính trị, nhưng bầu máu nóng ấy nếu có người khơi gợi, chắc chắn sẽ đáp ứng tức thì. Theo lời nhà văn Tô Hoài thì thời gian ấy Quang Dũng bị thu hút bởi tài năng của Nhất Linh, nhưng sau đó ông thấy Nhất Linh và Nguyễn Hải Thần chả làm được gì nên Quang Dũng không quan hệ với nhóm Đại Việt nữa. Và cũng trong thời gian ở Quảng Châu, ông đã theo học và tốt nghiệp trường quân sự Hoàng Phố, nơi đã từng đào tạo khá nhiều sĩ quan quân sự cho Việt Minh, sau lên cấp tướng như Nguyễn Sơn, Hoàng Sâm v.v...

 Trước khi viết về những hoạt động chính trong đời của Quang Dũng, thiết tưởng cũng nên cùng các bạn tìm hiểu xem cái tên Quang Dũng của nhà thơ từ đâu mà có. Nhiều giai thoại về cái tên Quang Dũng, tôi quả tình không biết sự thật ở đâu, xin được ghi hết ra để mọi người có thể am tường.

 Giai thoại thứ nhất do nhạc sĩ Trịnh Hưng kể lại. Rằng ông Nhất Linh rất mến Quang Dũng, khi Quang Dũng còn ở bên Trung Quốc, thì ông Nhất Linh ở Việt Nam đã viết hai cuốn tiểu thuyết Đôi Bạn và Đoạn Tuyệt, và nhân vật Dũng và Loan chính là lấy hình ảnh của anh chàng to con Bùi Đình Diệm và cô Loan, một cô gái có thật, con gái của một công chức ở vùng Việt Bắc, đã từng yêu say đắm nhà thơ, nhưng nhà thơ vì chí tại muôn phương nên chưa đáp lại. Ông Nhất Linh đã gửi hai tác phẩm này qua Tàu để tặng cho Bùi Đình Diệm. Khi nhận được, nhà thơ trẻ này đã thích thú vì cho rằng Nhất Linh đã chọn cho mình cái tên Dũng hay quá, rồi ông nghĩ phải chọn cho mình một cái họ mới có tính cách anh hùng. Vì họ ngoại của ông là họ Trần, và ông cũng ái mộ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, nên thêm vào chữ lót Quang nữa, từ đó ông có tên là Trần Quang Dũng.

 Giai thoại thứ hai, do bà Đào Thị Nhung cung cấp, cho rằng Bùi Đình Diệm khi ở vùng Tây Bắc trong trung đoàn Tây Tiến vì nhớ con trai nên đã lấy tên của con là Quang Dũng làm bút hiệu khi làm thơ. Sau này khi con trai tới tuổi đi học phải đổi tên khác là Bùi Quang Vĩnh.

Dù giai thoại nào đúng với sự thật thì cũng chả có gì quan trọng, nhưng những giai thoại này cũng tạo thêm nét huyền hoặc, mờ mờ ảo ảo vốn đã dàn trải trong thơ của ông.

 Quang Dũng trở về Việt Nam. Vào thời điểm Việt Minh lợi dụng cuộc biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim của công chức Hà Nội, biến thành cuộc nổi dậy cướp chính quyền, và đã thành công tạo nên cuộc Cách Mạng Tháng Tám 1945 với cờ sao rực đỏ phố phường. Với tấm lòng yêu nước nồng nàn, mong mỏi quê hương thoát vòng nô lệ của thực dân, phát xít, Quang Dũng và cả một thế hệ trẻ Việt Nam đã lăn xả vào công cuộc cứu nước chung, nào có ý thức gì về những âm mưu được giấu kín sau những nụ cười khích lệ, những lời cổ võ của những tên cai thầu chính trị cộng sản. Như nhà thơ Nguyễn Chí Thiện viết:

 
Nhưng rồi một sớm mùa Thu mùa Thu trở lại
Tuổi hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ sao rực rỡ
Tô thắm màu xứ sở yêu thương
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối rường rung đổ chuyển non sông
Mặt trời sự sống
Thổ ra từng vũng máu hồng...

 Năm 1945 là năm Quang Dũng tốt nghiệp Ban Trung Học của trường Thăng Long và đi dạy tư ở Sơn Tây kiếm sống, nhưng vào ngày 19 tháng 8 năm 1945, ông đã bỏ tất cả để gia nhập quân đội. Vai trò đầu tiên của ông là phóng viên tiền phương của báo Chiến Đấu. Đến năm 1947, ông được gửi đi học ở trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau khóa học, ông được bổ về làm đại đội trưởng trong tiểu đoàn 212, thuộc trung đoàn 54 Tây Tiến. Ông đã tham dự chiến dịch Tây Tiến đợt hai, chiến dịch này ngoài công tác phối hợp chiến đấu với quân Lào để đánh Pháp, mở rộng tầm hoạt động ở vùng Tây Bắc, còn có công tác dân vận để lấy sự ủng hộ của dân chúng khu vực này, mà trong mắt của đảng là chưa được giác ngộ cách mạng.

 Chính trong chiến dịch Tây Tiến này, Quang Dũng và những người con yêu của đất nước, đủ thành phần, hầu hết là người Hà Nội, đã trải qua những tháng ngày cực kỳ gian khổ, và cũng tràn đầy tính cách hào hùng, bi tráng, quyết liệt. 

Mời các bạn đọc bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng để có thể cực cảm được tính cách bi tráng của cuộc chiến đấu hào hùng của những con người không kể đến hy sinh bản thân mình, chỉ mong góp xương máu cho nền độc lập của nước nhà.

 
Tây Tiến

 
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

 
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

 
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

 
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

 
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

 
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

 
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

 
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

 
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi.

 Theo nhà thơ Quang Dũng cho biết thì ông viết bài thơ này khi về dự đại hội toàn quân khu III ở làng Phù Lưu Chanh, thuộc Hà Nam. Có nghĩa là bài thơ là một hồi ức về chiến trường. Lúc đầu ông lấy tên bài thơ là Nhớ Tây Tiến, nhưng sau ông cho rằng khi đọc lên là đã nhớ rồi, nên chữ nhớ không còn cần thiết, vì thế bài thơ chỉ còn là Tây Tiến. Viết đến đây, có một ý nghĩ vừa hiện đến trong tôi. Nếu bài thơ Tây Tiến được viết ngay trên dặm trường hành quân, ngay bên chiến trường còn vương khói, thay vì được viết khi nhà thơ về dự đại hội toàn quân ở Phù Lưu Chanh, thì bài thơ sẽ như thế nào nhỉ? Cũng chỉ là một ý nghĩ mà thôi.

 Trong bài thơ Tây Tiến, có một câu thơ rất đặc biệt, từng một thời gây cho nhà thơ xất bất xang bang khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bùng phát. Cai thầu văn nghệ Tố Hữu, vì ganh tài, vì muốn đạp người khác xuống để ngồi vào ngai vị độc tôn, nhất là Quang Dũng còn vướng chút tai tiếng đã từng có liên hệ với nhóm Đại Việt. Thế là Tố Hữu ra lịnh cho đàn em đem Quang Dũng ra phê bình sát rạt ở câu thơ:

 
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

 
Mấy ông quan văn nghệ Hà Nội thi nhau biểu diễn lập trường, cho rằng Quang Dũng luôn mang trong người ý thức tiểu tư sản, thân ở chiến trường mà còn mê gái, thái độđó không xứng với tư cách của người chiến sĩ nhân dân, chỉ làm xao nhãng lòng quân v.v... Đại khái như thế, họ đã cố tình thì làm gì không bới bèo ra bọ, tìm đủ cách để dìm Quang Dũng xuống. Ở một chế độ toàn trị như miền bắc VN, một người cán bộ văn nghệ, khi lãnh lương, vì thèm ăn một tô phở, đi ăn một mình, rồi sau đó cứ ăn năn mãi vì cảm thấy tội lỗi với gia đình, từ đó có thể hiểu được tại sao những cán bộ văn nghệ, ngoài một số ít còn giữ tư cách, phần lớn đều muốn được đảng ghé mắt tới với những ưu đãi, nên đành muối mặt ném bùn vào nhà thơ Quang Dũng.

 Liên hệ tới câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", có một giai thoại, tôi ghi lại ở đây để các bạn đọc cho vui, chứ tính chính xác tới cỡ nào thì tôi cũng chịu thua.

 Tài liệu kể rằng Quang Dũng có một người bạn tên là Nguyễn Ngọc Chương. Anh chàng này để ý tới một người đẹp tên là Kiều Dinh, nhà ở số 68 Phố Hàng Bông. Kiều Dinh có ba chị em khác là Kiều Vinh, Kiều Hinh và Kiều Hương. Cả bốn cô Kiều đều đẹp, và Nguyễn Ngọc Chương muốn giới thiệu một trong các cô này cho Quang Dũng. Thế nên người ta lập luận rằng "dáng kiều thơm" trong Tây Tiến là Quang Dũng nhớ về mấy nàng Kiều này. Tôi thấy điều này chỉ là giai thoại cho vui, chứ nếu đúng như thế thì chữ kiều phải được viết hoa thành Kiều. Và dẫu có được viết hoa, thì ý nghĩa của câu thơ cũng trở nên quá dung tục, eo hẹp, không mở ra cho người đọc hiểu được tâm tình của một chàng trai Hà Nội nhớ về một khung trời rộng lớn của thành đô quê mình.

 Sau khi bị gửi đi chỉnh huấn vì cái gọi là "ý thức chính trị", mặc dù Quang Dũng chả có liên quan gì tới phong trào Nhân văn Giai Phẩm, ông được điều về làm Biên Tập Viên của Báo Văn Nghệ, rồi sau đó về công tác ở Nhà Xuất Bản Văn Học. Dù vẫn được làm việc, nhưng đảng luôn để mắt tới ông, lưỡi dao treo lơ lững trên đầu khiến cho người nghệ sĩ đa tài đó muốn làm gì cũng phải ngó trước trông sau.

 Nói thế để chúng ta có thể hiểu được hoàn cảnh sống của nhà thơ Quang Dũng vào thời điểm ấy, nhưng theo miêu tả của nhà văn Xuân Vũ, cùng công tác với Quang Dũng ở Báo Văn Nghệ, thì nhà thơ luôn có tư tưởng lạc quan, yêu đời. Ông Xuân Vũ kể lại hoạt cảnh trong phòng làm việc của Báo Văn Nghệ, khi Quang Dũng đi công tác ở đâu đó vừa ghé qua, trên tay luôn là những món quà nhỏ cho mấy bạn cùng phòng, có khi là quả táo, có khi là cái khăn, cái quạt xếp, và ta nghe tiếng cười dòn tan của nhà thơ nữ Xuân Quỳnh... (lúc đó còn là cô bé, chưa lấy kịch tác gia Lưu Quang Vũ) cứ theo đuôi bác Quang Dũng nhờ chỉ dạy về cách làm thơ.

 Khi đã sống và làm việc dưới cặp mắt lom lom của đảng, mọi ưu đãi đều không có, đời sống gia đình của nhà thơ Quang Dũng dĩ nhiên là vô cùng chật vật. Có khi ông và vợ phải đi quét lá, gom về làm củi đốt. Được cái là vợ của ông, bà Bùi Thị Thạch, là một người phụ nữ điển hình của nữ giới Việt Nam, với tất cả tình cảm thương chồng thương con, chịu thương chịu khó. Bà luôn thay chồng quán xuyến mọi việc trong gia đình. Bù lại, nhà thơ cũng là người chồng, người cha mẫu mực. Có những sáng tinh mơ, ông dậy thật sớm, quang đôi gánh, nhẹ nhàng bước chân để không làm thức tỉnh vợ con, đi ra cách đó cả cây số để gánh nước trong về cho cả nhà dùng. Về cách dạy dỗ các con, ông là người cha tuyệt vời khi không dùng đòn roi, mà chỉ dùng tâm lý, khuyên răn, đối thoại, dạy cho con điều hay lẽ phải. Các con của ông như nhạc sĩ Bùi Quang Vĩnh, hay cô giáo Bùi Phương Thảo đều luôn nhớ về người cha lúc nào cũng đầy tinh tế và yêu thương của mình.

 Về cuối đời, nhà thơ Quang Dũng lâm bệnh nặng, phải nằm ở nhà thương Thanh Nhàn, Hà Nội. Những bạn hữu và đồng sự của ông tại Báo Văn Nghệ, Nhà Xuất Bản Văn Học đồng lòng yêu cầu ông trùm Nguyễn Đình Thi đưa ông vào bệnh viện Việt Xô để đủ phương tiện chạy chữa. Hai ngày sau, ông Nguyễn Đình Thi cho biết phía trên không đồng ý. Phía trên là ai? Dĩ nhiên là ông nhà thơ lộn giống, ca ngợi trùm độc tài Stalin trong những câu:

 
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương ông thương mười

 
và....

 Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin bất diệt.

 Nhà thơ Quang Dũng sức khỏe yếu dần, và ông đã thực sự xa lìa chúng ta vào ngày 14 tháng 10 năm 1988.

Tôi thật sự chỉ muốn chửi thề một tiếng cho cái thói bạc bẻo của nhà sản nói chung và lũ cai thầu văn nghệ miền bắc Việt Nam lúc đó nói riêng. Chúng chỉ là lũ đầu trâu mặt ngựa, hình dáng con người, nhưng tâm đen như quỷ. Chúng chỉ biết lợi dụng người ta cho đến tàn hơi thở, như một miếng chanh đã hết nước, chúng chả có chút tiếc thương, ném miếng chanh cạn kiệt kia vào sọt rác. Nhưng thói đời vay trả nhãn tiền. Ngày xưa, nhờ đạp người ta dưới gót chân, ra sức nâng bi, tô hồng cho đảng để hưởng vinh hoa phú quý. Ngày tết trước cửa xe khách dập dìu, người ta tới để bái lễ, để dọng vô họng thằng nịnh tặc tiền bạc đô la, nhưng rồi vào tết nguyên đán năm Canh Ngọ 1990, khi Phùng Quán đưa vợ tới để lễ tết ông cậu (Tố Hữu là anh em cô cậu với mẹ của Phùng Quán) thì thấy cái cảnh eo sèo của buổi chợ chiều, đường xá trước cửa vắng tanh. Khi ra về, Phùng Quán đi trước, Tố Hữu ra sau cùng với bà Bội Trâm, vợ của Phùng Quán, Tố Hữu thở dài nói với bà Bội Trâm: "Thằng Quán nó dại, mà cậu cũng dại". Câu nói bỏ lửng ở đó, nhưng người đọc thấy thấm thía vô cùng. Người ta không hiểu đến phút cuối của cuộc đời, trước khi nhắm mắt, Tố Hữu có nhớ đến những nạn nhân mà ông đã vùi dập một cách dã man?

 Tôi lại đi lạc đề rồi. Hơi đâu mà nhắc tới nhà thơ lộn giống đó cho thêm bẩn hương linh của Quang Dũng, một nhà thơ đã khiến cho nhiều thế hệ trẻ Việt Nam yêu mến và kính trọng.

 Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, chẳng những ông có một thế đứng rất riêng trên thi đàn Việt Nam với những bài thơ mang nặng hồn dân tộc trong cách dùng ngôn ngữ và hình ảnh thật mới lạ, ông còn là nhà văn viết truyện ký hấp dẫn, một họa sĩ xuất sắc từng tham gia triển lãm. 

Kể từ năm 16 tuổi, với bài thơ đầu tay Chiêu Quân, đến nay Quang Dũng đã có hơn sáu mươi bài thơ. Tính ra cũng không nhiều lắm so với những nhà thơ mới khác, nhưng di sản của ông lại được quần chúng đón nhận và yêu quý. Ngày nay, đọc những câu thơ như:

 
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ. (Đôi Bờ)

 
hay

 
Đây Nhạn Môn Quan đường ải vắng
Trường Thành xa lắm Hán Vương ơi
Chiêu Quân che khép mền chiên bạch
Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi. (Chiêu Quân)

 
hay

 
Ngõ trúc quanh quanh sầu bóng lá
Trăng vàng rơi rắc nẻo nào xưa
Ngõ cũ không mong người trở lại
Mà mùi hoa mộc vẫn thơm đưa. (Cố Quận)

 Chúng ta không khỏi nhớ tới một hình ảnh phong trần "tóc bời lộng gió bốn phương" của một người nghệ sĩ đa tài lãng mạn, một chiến sĩ can trường, khí phách. Năm 2001, Quang Dũng được nhà nước "nghĩ lại" trao cho một Giải Văn Học Nghệ Thuật, nhưng cái thứ bội bạc, nhổ ra rồi liếm lại đó có quý báu gì. Nhân cách lớn của ông, thi ca sắc nét của ông đã có chổ đứng vĩnh cửu trong lòng người thưởng ngoạn. Cái phần thưởng tinh thần đó, dù ai kia có đem hết quyền lực, tiền bạc để mua nó về cho mình cũng không được. Đây là điều an ủi lớn nhất cho hương linh của nhà thơ lớn miền Sông Đáy.

 
17.12.2016


304Đen - Llttm

No comments: