Người
tù
điên
– Anh Bỉ đâu? Ra gặp “cán bộ quản giáo”.
Một tù nhân trẻ
măng lồm cồm đứng lên. Anh chạy nhanh về phía tiếng
nói.
Vạt áo lắc
lư theo đôi
tay. Hàng nút chưa kịp cài, để
lộ bộ ngực trần, rắn chắc, màu vàng nghệ.
– Chào cán bộ. Tôi là Bỉ.
Gã cán bộ
lùn tịt,
đứng chống nạnh trước cửa sam. Nón cối sùm sụp,
che kín gần
hết khuôn mặt.
Tù
nhân chỉ nhìn thấy
hàm
răng hô, đầy bựa thuốc đen sì.
– Anh không khai
báo thành thật.
Bảng tự kiểm còn thiếu sót rất nhiều. Làm lại!
Gã giúi quyển
vở vào
tay Bỉ, hằn học từng câu. Cuối cùng, kéo đôi dép râu
soàn soạt, tiến thẳng về phía cổng.
Tôi buông mảnh
chai vỡ xuống gốc cây, cầm cái chân ghế
dở dang, chạy vội đến Bỉ.
– Sao? Tại sao lại thiếu sót? Mi khai thế nào? Bao nhiêu trang?
– Tau đi lính có
hai năm. Mất
một năm quân trường. Còn một năm làm huấn luyện viên không quân.
Tau thấy,
tau có tội chi đâu, để khai?
Bỉ nhìn quyển vở một trăm trang. Quyển vở, mà ban chính trị đã phát, để tù nhân khai báo tội
lỗi. Họ bắt buộc, tù nhân phải nặn óc moi trí, nhớ lại từng thời gian, từng chi tiết những lần phạm
tội. Kể cả tội lỗi của ông cố, ông sơ, ông nội, ông ngoại…xảy ra trong dĩ vãng mịt mù, dù tù nhân chỉ nghe gia đình loáng thoáng
nói lại.
Tôi lật
quyển vở. Không
đầy hai trang khai báo. Còn lại, là chín mươi bốn
trang giấy trắng dày cộm. Tôi lắc
đầu.
– Mi viết ít quá! Nó nghi
ngờ
đấy!
Bỉ
rống lên.
– Tau có bỏ tù, bắn, giết thằng nào đâu? Lấy
chi làm tội, khai ra?
– Chúng nó đã nói, có
tội
mới vào tù. Đã vào tù, sao bảo là vô tội?
Bỉ
khẩn khoản:
– Mày hướng dẫn tau đi! Giúp giùm đi!
– Cố nhớ lại xem, có thiếu
nợ, có dụ dỗ ai không? Viết vào!
– Ồ! Nhớ ra rồi. Tau có con bồ.
Tau đã dẫn vô khách sạn, “phể” nó. Vậy, có…có tội không?
– “Phể” không cưới, là tội. Khai vô. Tán dài ra!
Chỉ thế thôi, quyển
khai báo của
Bỉ được ban chính
trị chấp nhận, và được liệt vào danh sách các quyển
khai báo
thành thật nhất. Chỉ thế thôi, Bỉ
bắt đầu ra tay “gò” cho tôi một thùng đàn bằng
thiếc, lấy từ mảnh “tôn” phế thải ở đằng sau nhà bếp
tù
nhân.
Vào tù, giai đoạn đầu, chúng tôi được đưa đến trại Trần Quốc Toản học chính trị.
Trước đây, trại Trần Quốc Toản là quân trường địa phương quân, nằm trên trục lộ Cao Lãnh – Hồng Ngự. Chúng tôi đến đây, giữa lúc khói lửa còn bốc lên tràn ngập, rải rác khắp nơi trong trại. Mùi thuốc súng, mùi quân trang quân
dụng cháy…hợp với mùi hố phân, mùi nước tiểu, mùi bùn đất… bay ngai ngái trong không
khí oi nồng
của mùa nắng. Sam tù nhân cư trú, là các sam
lính ngày xưa. Ngoài sân, còn lố nhố đó đây những ba lô, cà mèng, bi đông, túi nhựa, nón sắt, quần áo lính… vất lung tung, loạn xạ. Chúng tôi bỏ cả
ngày quét dọn sạch sẽ, gom lại từng đống, có lớp có lề hẳn hoi.
Vào tù, giai đoạn đầu, có nhiều thời gian nhàn rỗi. Ngoài giờ lên lớp học chính trị, tù nhân được thong thả trong bốn vòng rào kẽm
gai trại tù. Thời gian nhàn rỗi, tù nhân vùi đầu vào công việc cá nhân, để quên đi năm tháng, để lấp đi những nỗi đau: tiếc nước, thương nhà…Trong số công việc cá nhân thường
ngày, Bỉ là người đầu tiên đưa sáng kiến: dùng “tôn” phế liệu, chế ra dụng cụ hữu ích cho tù nhân. Anh bắt đầu lấy thanh thép chữ X nằm mặt sau ba lô, bẻ gãy từng khúc, rồi mài xuống nền xi măng…cho đến khi nào mép của
thanh thép mỏng lại, bén ngót. Thế là, những cây đục “dã chiến” thành hình, ra đời từ đó. Kế đến, Bỉ dùng đục loại bỏ những khoảnh “tôn” hư, để
lấy phần “tôn” tốt “gò” những đồ dùng cho đội tù, như: ca, thùng tưới, thùng xách nước… v… v…Sau này, Bỉ còn “gò” cả vá xúc đất, rương đựng quần áo…
Tôi thích vọng
cổ, có lẽ
ảnh hưởng từ Má
tôi, từ những ngày còn thơ ấu. Má tôi mê cải
lương lắm! Tỉnh lẻ, thỉnh thoảng có đoàn cải
lương về. Đêm
nào, Má cũng dẫn tôi đi xem hát. Xem riết,
vọng cổ tiêm
nhiễm vào
máu huyết tôi lúc nào, chẳng
hay. Chỉ biết, khi nghe ai hát, khi nghe ai đàn, tôi như người
mất hồn. Tiếng hát tiếng đàn quyện
vào
nhau, dắt đưa tôi đến
cõi
thinh không muôn màu muôn sắc.
Bỉ
cũng vậy. Hắn có giọng ca trong trẻo, cao
vút
thấu tận mây xanh. Mỗi lần hắn xuống “xề”,
mùi tới
độ… chúng
tôi muốn đứt từng đoạn ruột. Vì thế, tôi với
hắn sớm thành
tri kỷ tri âm.
Cho đến nỗi… sau này, tiếng đàn tôi ở
đâu,
tiếng hát Bỉ
ở đấy.
– Này, mi làm ăng ten, hại anh em, có đúng chăng?
Bỉ giẫy nẩy. Hai con
mắt hắn trợn ngược lên, có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa
tức tối.
– Mẹ, thằng nào nói? Tau lên
“gò” rương cho cán bộ. Làm việc túi bụi suốt ngày, không có thì
giờ để
thở. Ăng ten cái con…c…
– “Gò” cái đéo
gì…cả
mấy tháng nay, chưa xong?
– Mẹ, hết thằng này đến thằng khác đặt hàng. Mày đếm coi bao nhiêu cán bộ, từ thằng lớn tới thằng bé. Biết
chừng nào mới xong?
– Tụi nó đặt cái đếch chi, mà lắm thế?
– Thằng nào cũng muốn có rương gửi về Bắc, làm quà cho gia
đình. Mỗi
thằng đặt hai hoặc ba rương. ĐM, “gò” muốn bá thở!
Tôi cố
gắng thanh minh cho Bỉ với anh em. Cố gắng tìm ra thằng
ăng ten núp
bóng quanh đây, để giải oan cho Bỉ. Nhưng, việc
làm của
tôi
như dã tràng xe cát. Bí mật vẫn nằm trong bí mật.
Rồi,
tháng
ngày trôi qua, trại tù đến
chu kỳ thăm nuôi.
Sáng sớm, tù
nhân náo nức thức dậy. Mọi người tự động
ăn mặc chỉnh tề, ngồi quây quần nói chuyện
râm
ran, chờ đợi tên mình được
gọi trên
loa phóng thanh. Bỉ là một
trong những tù
nhân được
gọi
đầu tiên. Ở
sam, tôi
chuẩn bị cho hắn một ít dây ny lon để
treo quà
lên trần nhà.
Chuẩn bị củi để hâm thức ăn. Chuẩn bị chai
lọ để chứa đường, muối, tiêu, ớt, nước mắm…Tôi thấp
thỏm đón Bỉ
ở cửa sam, chờ xách giúp vài túi quà, đỡ
đần bạn đôi
chút nhọc nhằn. Nửa tiếng sau, Bỉ
lững thững trở về. Hai bàn tay trống trơn. Chẳng có phần
quà
nào hết. Bỉ đi một hơi vào chỗ nằm, lăn đùng ra chiếu,
úp mặt
xuống nền đất, thở dài. Từ đó, Bỉ
không
nói với ai một lời. Cũng không buồn thức dậy, nhận phần
ăn chiều.
Từ
đó, Bỉ
đi lang thang khắp trại. Lúc nào, mặt cũng ngước lên trời,
nói lầm
thầm suốt ngày –
như nói với người vô hình nào đó. Bỉ
bỏ cả ăn uống. Chẳng màng tới vệ sinh cá nhân. Chẳng
cần đến sinh hoạt, nội qui của trại tù.
Thương bạn,
tôi
theo Bỉ hàng
giờ. Khuyên
lơn, dỗ dành.
Thậm chí đến
độ tức giận, phải giả vờ răn đe, dọa nạt. Dù tôi có giở
trò gì
đi nữa, Bỉ vẫn khư khư, làm những điều hắn làm. Buổi
trưa, nắng chói
chang. Nắng làm rát bỏng
mặt đường. Nắng dọi lên “tôn”, khiến các sam đều
hừng hực nóng.
Tù nhân phải cởi trần, tìm bóng mát quanh sân,
hứng những làn gió nhè nhẹ, từ xa thổi về. Chỉ
có Bỉ,
dật dờ như bóng
ma, quần áo tả
tơi, lang thang từ sam này qua sam nọ. Bỉ vừa ngao du, vừa
lảm nhảm. Cứ như thế, Bỉ quanh quẩn tới tối. Khi trật tự trại lôi vào, mới
chịu về sam nghỉ ngơi.
Tôi theo Bỉ
đều đặn. Lắng nghe những điều bạn nói. Cố lắng nghe lắm, mới
biết Bỉ đang đàm
thoại truyền tin, trong một cuộc chiến nào đó, ngày xưa:
– Phi Điểu, đây Mãnh Hổ gọi, trả lời. Xin thẩm quyền cho tí lửa.
Tụi em rét lắm! Cần ánh sáng để sưởi ấm và soi đường. Nếu không, yêu cầu Phi Điểu san bằng nơi đây đi! Tụi
em chấp nhận…
Hoặc,
Bỉ khóc
lóc thảm thương:
– Người ta bỏ nước. Em bỏ quê. Anh bỏ nhà. Chúng ta đành bỏ lẫn nhau…Vì ai???
Thương bạn,
tôi cố
tình
nhắc chuyện xưa. Nhắc chuyện cô bồ, đã có một
thời chung chăn chung gối với Bỉ ở khách sạn. Tôi kể
những kỷ niệm êm đềm
đầu đời. Kể lại mùi hương da thịt
nồng nàn
trinh nguyên của con gái. Kể
lại nụ hôn
ngọt lịm đến tê dại đầu lưỡi. Tôi muốn
gợi nhớ gợi thương, dẫn Bỉ ngược về quá khứ son vàng, để
mong phục hồi tâm trí, đưa bạn trở lại đời sống bình thường.
Nhiều
lần, tôi cầm
cây
đàn vọng cổ, ngồi cạnh Bỉ, rao những bản vắn bạn thích. Tôi chơi từ
bản vui đến bản buồn. Từ xang xừ líu, nam xuân…qua phượng
hoàng,
văn thiên tường…sang tứ đại oán, bình bán chắn…Bỉnh
chợt ngưng nói
nhảm, hắn chăm chú lóng nghe, đứng
im lặng ngó về
một cõi
sâu thẳm nào
đó. Mừng quá,
tôi tiếp tục chơi. Tôi bấm đến rướm máu đầu
ngón
tay, nhấn đến đứt cả dây đàn. Vậy
mà,
cuối cùng,
khi đàn ngưng, Bỉ vẫn trơ trơ, tiếp tục lang
thang, lảm nhảm.
Rồi
một đêm,
trại tù bỗng
choàng
dậy bởi những tiếng súng vang trời. Tôi lồm
cồm bò đến
phía
vách, nhìn qua khe lá, ngạc nhiên ngó ra bên ngoài.
Trời đen kịt, im vắng lạ thường. Những ngọn đèn lờ
mờ xung quanh trại, vẫn hắt xuống bóng đêm một
màu
vàng bệnh hoạn. Đằng xa, ngoài cổng trại, lố nhố đám vệ
binh đang bàn
tán, đôi co điều chi? Lát sau, tù nhân nghe
tiếng chân rầm
rập đi về hướng ruộng. Rồi, tiếng lôi vật gì xềnh
xệch trên lối
đi. Tiếng vá
xúc đất lịch kịch. Tiếng báng súng đập vào nhau lụp
cụp.
Buổi sáng, tin tù trốn trại truyền đi khắp nơi. Tù nhân Lê văn Bỉ đã bị vệ binh bắn gục, trong lúc tìm cách vượt qua hàng rào cổng, đêm qua. Nghe tin,
tôi choáng váng, ôm mặt, lăn xuống chỗ nằm. Những giọt nước mắt rơi ra, một cách kín đáo, tiếc thương cho người bạn đã vội lìa đời.
Tiếng
đàn
tôi từ nay, vĩnh viễn không còn tiếng hát của
Bỉ quyện vào.
Mất tiếng hát tri âm, tiếng đàn chỉ
còn
là thứ ngũ cung vô tri, rời rạc. Nó cất
lên một
cách
cô đơn, gào lên một cách lạc
điệu, mất hồn.
Đến
bây
giờ, tôi vẫn
không
nghĩ là Bỉ trốn trại, để cuối cùng nhận
lãnh
cái chết oan uổng như thế. Bỉ đâu cần phải vất vả leo rào, vượt
ngục – tìm
kiếm cho hắn một thứ tự do hão huyền
ngoài đời
(trong lòng
chế độ mới).
Hắn đã bước vào thế giới cuồng điên, thế giới riêng của hắn. Ở đó, hắn mặc sức tung hoành, vẫy vùng thoải mái theo ý muốn. Và sự thoải mái này, không phải là thứ tự do khao khát hay sao?
No comments:
Post a Comment