CHÙA LÀNG,
NHẤT QUỶ NHÌ MA
Tam quan chùa Vĩnh Khánh (chùa Trăm Gian)
Làng
Yên tọa lạc trên một vùng đất cổ bên sông Kinh. Cư dân ở đây vốn sùng đạo Phật
nên chẳng biết từ đời nào đã có đến ba ngôi chùa gồm Vĩnh Khánh (永慶寺),
Vĩnh Minh (永明寺) và Vĩnh Khang (永康寺). Vĩnh Khánh còn
gọi chùa Trăm Gian, Vĩnh Minh gọi chùa Đàm, còn Vĩnh Khang tục gọi chùa Mục
Đồng (牧童寺) vì từ xa xưa người làng đã truyền ngôn, khởi thủy
ngôi cổ tự này là do các cụ chăn trâu dựng nên từ thời Quận He khởi nghĩa…
Trong
ba chùa, Vĩnh Khánh lớn nhất, đúng một trăm gian, tòa ngang dãy dọc rất bề thế
nằm vắt ngay đầu làng song song triền đê cách bờ sông vài trăm mét. Vĩnh Khánh
tự còn được xem như tổ đình. Nơi đây hằng năm vào ngày 8 tháng tư âm lịch (hiện
nay là 15 tháng tư), các tăng ni, phật tử, khách thập phương về dự lễ đản sinh
đông như trẩy hội.
Chùa
lớn nhưng nhân khẩu không nhiều, chỉ chừng dăm bảy người, sống chủ yếu bằng
nguồn hoa lợi từ mấy mẫu ruộng, một năm hai vụ do các sư, tiểu tự cày cấy. Đến
ngày thu hoạch có thêm một số bà con trong làng gặt giúp. Như vậy, là nhà chùa
từ lâu đã có truyền thống tự lao động nuôi chính mình mà không dựa dẫm vào sự
cúng dường hay hòm công đức, đúng như lời Phật dạy.
Năm
1958, chiến dịch “bài trừ văn hóa độc hại, triệt bỏ mê tín dị đoan” quét qua
làng Yên, hàng loạt đình chùa đền miếu bị phá dỡ trong đó có ngôi nghè từ thời
Cảnh Hưng, đã được trùng tu nhiều lần, quy mô lớn nhất hàng tổng. Chỉ riêng gỗ
lim, xã thu về hơn bảy chục khối. Cánh thợ mộc phải “kéo cưa lừa xẻ” thông ba
tháng mới xong. Chùa Vĩnh Khang tuy nằm hẻo lánh ngoài đồng cũng vẫn trong tầm
ngắm của cán bộ văn hóa. Chưa trọn một một ngày, Mục Đồng cổ tự thành phế tích.
Chỉ có điều chẳng hiểu vì sao người ta để lại phần hậu cung thờ Đức Chúa như
cái chuôi vồ. Sau này đám trẻ trâu hay vào đấy nghịch. Có thằng châm lửa đốt
trụi râu Đức Chúa rồi bắt chim tè vào góc tường, về nhà ốm một trận thập tử
nhất sinh, bố mẹ phải làm lễ tạ mới tai qua nạn khỏi.
Những
ngày sôi động ấy, lũ tí nhau chúng tôi cũng phải nghỉ học tham gia dưới sự chỉ
huy của thầy chủ nhiệm. Khắp mọi nơi, chỗ nào quét vôi được là xuất hiện khẩu
hiệu cổ vũ cho phong trào văn hóa mới. Cho đến giờ tôi vẫn nhớ như in một
slogan rất ấn tượng được cho là của ông Trưởng Ban Tuyên huấn tỉnh ủy: “Triệt
để bài trừ các loại thầy bói, thầy cúng và chó dại”.
Sáng
hôm ấy, đoàn học sinh rồng rắn xuống chùa Đa Đinh, mặt đứa nào cũng tươi hơn
hớn vì lần đầu tiên trong đời được tham gia vào sự nghiệp cách mạng.
Thầy
trò cuốc bộ đến nơi thì ngôi chùa đã bị dỡ mái, đập tường. Rui mè, xà ngang,
cột dọc, gạch ngói nằm ngổn ngang trong đám bụi mù mịt như khói rạ đốt đồng.
Tượng Phật được gom lại giữa sân gạch Bát Tràng. Mấy bác dân quân chất củi xung
quanh châm lửa đốt. Tượng gỗ mít bén rất nhanh, lửa bốc cao, khói tỏa mùi thơm
hương trầm. Có những vị La Hán to cỡ bắp đùi, sơn son thếp vàng bị đám trẻ con
lấy ra nghịch chán rồi quẳng xuống ao nổi lềnh phềnh…
Cũng
may, chùa Vĩnh Khánh không bị phá. Sau này chúng tôi mới rõ, ngôi cổ tự thoát
cơn tai biến là bởi xã chưa có trường học mà Tam quan thì rộng có thể chứa được
cả trăm học sinh. Nghe nói đây là sáng kiến của ông Chủ tịch. Ơn trời. Chẳng
biết vô tình hay hữu ý, ông đã giữ lại cho làng Yên một danh lam.
Tam
quan là công trình kiến trúc đẹp nhất chùa Vĩnh Khánh, cao hai tầng, trên có
gác chuông, mái ngói âm dương với tám đầu đao cong vút, tận cùng bằng một con
nghê có sừng và cặp mắt thủy tinh xanh đen rất ngộ. Tuy nhiên, hoành tráng nhất
vẫn là hàng cột cao sừng sững đường kính khoảng bảy chục phân toàn bằng lim
thanh, bào trơn đóng bén, tuổi thọ hàng trăm năm mà vẫn “trơ gan cùng tuế
nguyệt”. Đương nhiên, với loạt cột như thế, dù là loại “nhất quỷ nhì ma” như
chúng tôi cũng chịu phép, không thể trèo. Nhưng lại có thể trèo lên gác nơi có
chiếc chuông đồng đúc từ năm Khải Định thứ… bằng cây thang tre lồng ngộc. Cách
Tam quan mấy thước về hướng Bắc là tòa Tam bảo tức Đại hùng bảo điện lúc nào
cũng đóng cửa trừ những ngày lễ cho khách thập phương vào bái Phật. Khoảng sân
hẹp này có hai cây hải đường khá lớn, tán lá vươn lên quá gác chuông. Mùa thu,
hải đường ra hoa, màu đỏ sậm. Hoa hải đường tươi lâu, có thể để được cả tuần mà
vẫn đẹp.
Nhà
chùa chẳng ưa gì đám học trò mặc dù họ thừa biết, nếu không có chúng tôi, từ cụ
trụ trì cho đến chú tiểu đã phải hoàn tục từ lâu. Cả con trai lẫn con gái đều
nghịch như quỷ làm sư Độ ngứa mắt. Sư trạc bốn mươi, người thấp đậm, dáng dấp
như gã phu thuyền, lúc ấy ở bậc sư ông, không biết chữ Nho, tụng kinh chỉ học
truyền miệng. Một lần nghỉ giữa giờ, tôi với thằng Quyển leo lên gác gõ chuông.
Sư Độ thoáng thấy liền lặng lẽ rút thang. Đương nhiên là chúng tôi không chịu,
mắt trước mắt sau nhìn thấy cây hải đường liền bò ra mái ngói bám vào ngọn cây
tụt xuống. Nào ngờ sư Độ đã phục bên dưới túm được thằng Quyển vừa cho mấy cái
bạt tai vừa chửi “Bá ngọ mày…”.
Sau
vụ ấy, thầy Vũ Thái La ghét chúng tôi lắm, nhất là tôi còn thường xuyên mất
trật tự trong lớp và hay gây gổ, có điều thầy cũng chẳng ưa gì sư Độ. Thầy rất
dữ đòn, học trò lơ mơ một chút là bị ăn thước lim nhưng lại có biệt tài bịa
chuyện cổ tích như thật. Một lần thầy kể chuyện “Ông sư mỏ vẹt” (hình như là
một phiên bản của cổ tích Ấn Độ hay Nepal gì đó), đến lúc cao trào sư ta ăn
vụng mật bị ong đốt thì sư Độ, như có phép tàng hình, hiện thân ở cửa ngách Tam
bảo, mặt nhăn nhó như khỉ ăn mắm tôm. Thầy phải tạm ngừng, chờ “nhà chùa” đi
khuất rồi hắng giọng: “Từ nay các em gọi truyện này là ÔNG VUA MỎ VẸT, nhớ
chưa?”. Vừa nói thầy vừa ra dấu tay chỉ lên tòa Tam bảo.
Giữa
Tam bảo và Nhà Tổ có một bể nửa nổi nửa chìm dự trữ nước mưa khá lớn nên chùa
quanh năm không bao giờ hết nước, ngặt nỗi cửa đóng chốt phía trong không đứa
nào vào được. Nhưng cái đó chưa đáng sợ. Sợ nhất là bà Thơi, một vãi già (lúc
ấy có thể đã quá 60), không chồng, không con và rất lắm điều. Cho dù chùa là
không gian tâm linh, nhưng nếu ai đó lỡ miệng động đến, bà ta có thể chửi thông
hàng tiếng đồng hồ bằng thứ ngôn ngữ chợ búa đến mức ma quỷ cũng phải lẳng lặng
cuốn gói. Có lần mấy thằng lớp thầy Thu khát luồn cửa sau dùng ống đu đủ hút
nước bể uống. Đúng lúc bà Thơi ra ao rửa bèo. Nhìn thấy hai thằng lỏi con mặt
lấm lét như kẻ trộm, bà vãi vứt bịch rổ bèo, vớ ngay cán chổi vụt tới tấp.
Chẳng hiểu trong lúc tháo chạy chúng xô ngã bà hay bà tự lăn ra ăn vạ, mà thằng
H bị sư Độ tóm được điệu lên phòng thầy hiệu trưởng. Chuyến ấy H bị ông bố dữ đòn
nện cho một trận nhớ đời.
Từ
đấy, sư Độ bị cánh học sinh thù, cứ gặp “nhà chùa” nơi vắng vẻ là trêu “Bá ngọ
sư”…
Ngày
ấy, xã vừa mới thành lập trường, dân ta phần lớn mù chữ hoặc mới qua Bình dân
học vụ nên kính trọng các thầy giáo làng lắm mặc dù có không ít vị trình độ học
vấn chưa qua cấp I.
Lớp
chúng tôi vào khoảng bốn chục mạng nhưng tuổi tác cực kỳ lỡ cỡ. Trong khi tôi,
thằng Dụ, thằng Thiều thuộc loại ranh con, đi học qua chỗ ngập nước còn cởi
truồng nồng nỗng ôm quần và sách vở lội qua chẳng việc gì phải xấu hổ, thì có
những anh chị đã đến tuổi “cập kê”. Mà cũng lạ. Họ lớn tuổi nhưng lại dốt lòi
tói, chữ trên bảng to như con gà mái mẹ mà đánh vần không nổi. Đến lớp hình như
chỉ để tán tỉnh nhau. Điển hình là anh T, chẳng hiểu vì sao đám trẻ xóm Chùa
lại đặt cho biệt danh T. Cò. T. Cò năm ấy khoảng 16, 17, dáng cao, mảnh người,
đặc biệt có mái tóc “gọng kính” vắt ngược sang một bên tai, trông như nghệ sĩ.
Ngồi cạnh “nghệ sĩ” ở bàn cuối cùng là chị Ve, mặt hơi rỗ hoa, chữ như gà bới
nhưng bắt cua thành thần. Trưa nào cũng vậy, ăn cơm xong chị xách giỏ ra đồng,
chỉ sau hai tiếng đồng hồ đã có giỏ cua kềnh mang lên chợ Từ Đường bán.
Hôm
ấy trời se lạnh. Lớp đang giờ học thuộc lòng thì thầy Vũ Thái La phát hiện bàn
cuối chị Ve khuỳnh tay huých vào sườn T. Cò, liền nghiêm giọng:
-
Cô Ve và anh T. đứng lên, ra khỏi lớp!
Chẳng
ai như chị Ve, thật thà một cục, đứng dậy, giọng ráo hoảnh:
-
Thưa thầy, bạn T…. bóp vú em.
Cả
lớp được một trận cười. Nhưng thầy giáo thì không. Ông cầm thước lim lừ lừ đi
xuống bảo T. Cò:
-
Đặt tay lên bàn!
Đến
nhát vụt thứ ba thì T. Cò đau quá hết chịu nổi vội rút tay làm chiếc thước lim
tử thần đập đến chát một cái vào mặt bàn. Cùng lúc “nghệ sĩ” túm quai chiếc cặp
gỗ lầm lỳ bước ra. Đến cổng anh ta ném cả sách vở lẫn bút mực xuống ao chùa…
Mấy
hôm sau chị Ve cũng bỏ học, về nhà sang cồn Vĩnh Trụ cắt cỏ bán.
*
Đến
năm tôi, thằng Dụ với cái Tuyết học cấp III Nam Sách thì T. Cò làm bí thư chi
đoàn. Bước đường thăng tiến của anh ta khá nhanh. Thời cao điểm, thanh niên bị
bắt lính vào chiến trường vãn, làng Yên chỉ còn toàn loại thấp bé nhẹ cân vô
tích sự, anh ta, với cái mác đảng ủy viên, phó chủ nhiệm hợp tác xã, thuộc đối
tượng “mì chính cánh”, là niềm khao khát cháy bỏng của giới chị em. Đã thế T.
Cò lại sẵn máu phong tình, từ gái có chồng đi Nam, vợ liệt sĩ cho đến những
nàng quá lứa nhỡ thì ma chê quỷ hờn chẳng chừa một ai. Thế là việc gì đến sẽ
đến. Đám thanh niên “đui què mẻ sứt” đội 7 bài binh bố trận đón lõng. Ăn quen
bén mùi, mới chập tối, T. Cò đã mò vào nhà cô Kh., chồng vừa đi Nam, đang “hành
sự” thì bị bắt tại trận. Cánh trai xóm Giếng chẳng nể nang gì, xúm nhau ra đòn
hội chợ làm đồng chí phó chủ nhiệm thâm tím mặt mũi, sau đó phải muối mặt ký
biên bản. Tội hủ hóa với vợ bộ đội bị quy kết nặng lắm. Đương nhiên là sau vụ
scandal, sự nghiệp làm “đầy tớ dân” của anh ta coi như chấm dứt.
Mùa
hè năm ấy có điềm gở. Nửa đêm sấm sét đùng đùng, chớp rạch ngang trời nhưng
không một hạt mưa. Một chiếc vòi rồng từ bên kia sông Kinh xoắn qua làng thành
vệt dài tạo ra tiếng ù ù như xay lúa. Sáng ra, nhìn cảnh tượng thật kinh hoàng.
Hàng loạt nhà tranh bị tốc mái, rui mè, đòn tay bay vèo ra đồng Vạn. Nhưng kỳ
lạ nhất là mái chóp cổng chùa Trăm Gian, gạch vồ xây vôi cát với mật mía, nặng
hơn tấn, bị cơn lốc cuốn xa hơn trăm mét. May không có người chết.
Nhớ
lại, hồi còn lớp 4, hôm ấy hình như thầy Thu dạy thay thầy Vũ Thái La. Lớp có
một học sinh cá biệt bị tật bẩm sinh ở chân từ nhỏ, đi lại rất khó khăn tên QT.
Đang giờ học QT giơ tay xin ra ngoài, thầy không cho nhưng hắn cứ cà nhắc lách
khỏi bàn. Thầy tức quá, cầm thước xuống định vụt. Đúng vào lúc ấy QT tè ra quần
chảy xuống cả nền gạch. Hóa ra hắn buồn đái. Chuyện này sau trở thành giai
thoại cũng hài hước chẳng kém gì T. Cò sờ ti chị Ve. Nói gì thì nói, lớp chúng
tôi lắm anh tài. Bọn tôi thuộc type thò lò mũi xanh luôn bị véo tai, cốc đầu
không kể làm gì. Thế nhưng ngay cả tay Lê Quang Thung bên thôn Đoài, hơn tôi
với cái Tuyết đến 5, 6 tuổi, cũng bị cánh anh Nhụt với anh Quý (Ba Toa) bắt
nạt, nhiều lần phải khóc mới lạ. Nghe hắn khóc, giọng ồ ồ như bò rống khiến đám
con gái ôm bụng cười.
*
Lúc
ấy tôi không còn ở nhà nhưng nghe cô em kể lại, thời kỳ 1968-1970, Thung đi
Thanh niên Xung phong, rồi lại chuyển từ Thanh niên Xung phong sang bộ đội, lên
đến cấp tiểu đoàn, có lần giải thoát được ông cán bộ Mặt trận Giải phóng miền
Nam Việt Nam bị thám báo truy sát. Sau năm 1975, ông cốp ấy trở thành nhà lãnh
đạo quốc gia, nhớ ơn cứu mạng nên sắp xếp cho hắn một chức vụ kha khá trong
ngành cao su. Hồi còn ở làng, vì học kém, Thung bỏ dở cấp II về nhà đánh giậm,
vậy mà khi “đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu” hắn tỏ ra rất có năng khiếu trèo
cao, vào sâu. Trước lúc nghỉ hưu, Lê Quang Thung là Chủ tịch Hội đồng thành
viên Hội đồng Quản trị Tập đoàn Cao su Việt Nam. Ngày giỗ mẹ, hắn bay từ Sài
Gòn ra. Toàn khách VIP, trong đó ban Thường vụ Tỉnh ủy sở tại không thiếu một
ai. Thần kỳ hơn nữa, có lần ông TTS, khi ấy là đương kim Chủ tịch nước cũng về
thăm tư gia hắn ở thôn Đoài với tư cách cá nhân.
Ở
đời này cái gì cũng có giá của nó, nhất là với những kẻ ăn cắp có tổ chức để
vinh thân phì gia. Lê Quang Thung phải ra hầu tòa vì “chủ mưu có hành vi nguy
hiểm khi trực tiếp chỉ đạo việc góp vốn trái quy định” (trích cáo trạng của
Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố HCM). Ngoài ra, với tư cách Tổng giám đốc tập đoàn
cao su, chẳng biết vô tình hay hữu ý, hắn và đồng bọn đã làm “bốc hơi” hơn bảy
ngàn tỷ VND… Chiều ngày 6 tháng 8 năm 2019, trong vành móng ngựa, Thung bị
tuyên án bốn năm tù giam. Bản án nhẹ như xua muỗi về tội tham nhũng lại được
uyển ngữ hóa thành “quản lý yếu kém”, “cố tình làm sai…” này liệu có đủ sức răn
đe những “đồng chí chưa bị lộ” ở xứ Đông Lào?
Hằng
năm, vào dịp cuối tháng Tư âm lịch, khi ấy học sinh đã nghỉ hè, Tam quan dành
cho các tăng ni từ khắp nơi về ngồi hạ. “Ngồi hạ” là thuật ngữ của nhà Phật
thiền phái Trúc Lâm để chỉ một hình thức tu tập ngắn hạn ở Tổ đình do những vị
hòa thượng đạo cao vọng trọng giảng kinh, thuyết pháp.
Sư
trụ trì chùa Trăm Gian thời kỳ những năm sáu mươi của thế kỷ XX là thượng tọa
có tục danh là cụ Nhính. Thượng tọa là vị chân tu, thông kim bác cổ, suốt đời
ăn chay. Chuyện kể rằng, khi lâm trọng bệnh phải vào nhà thương, bác sĩ khuyên
cụ nên ăn mặn để bổ sung dinh dưỡng mới có thể phục hồi sức khỏe, nhưng cụ
không chịu, được mấy hôm thì viên tịch.
Trong
làng có người chết chùa cử sư thầy đến làm thủ tục nhập quan. Sư Lân trong bộ
tăng phục nâu sồng, tay cắp ô, vai mang túi vải đựng đồ nghề cuốc bộ đến nhà
tang chủ. Ông bắt quyết lẩm bẩm mấy câu thần chú sau đó đọc một đoạn kinh cho
người quá cố rồi lại cuốc bộ về chùa. Trước Phật tổ mọi chúng sinh đều bình
đẳng, dù đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ chết yểu phải bó chiếu mang ra đồng hay các cụ
già tám chín mươi vừa quy thiên, sư Lân cũng làm thủ tục đúng như vậy, tuyệt
nhiên không nhận của nhà đám tiền nong hay bất cứ thứ lễ vật gì.
Một
hôm sư Độ cho tôi chùm vải thiều phải đến mấy chục quả. Lạ quá. Tôi, một thằng
học dốt, nghịch như quỷ sứ, chuyên leo trèo mái Tam quan bẻ hoa hải đường, luồn
rào vặt trộm hoa quả vườn chùa vậy mà lại được sư ông ưu ái! Về nhà tôi đem
chuyện nói với ông thân sinh. Bố tôi cười bảo: “Trong chùa, ngoài cụ Nhính và
ông Lân ra, các sư còn lại không biết nhiều chữ. Họ tụng kinh thuộc lòng nhưng
chỉ hiểu nghĩa một cách lờ mờ. Hôm mười tư vừa rồi bố ra chùa có chút việc gặp
sư Độ. Ông ấy mời vào phòng uống nước rồi nhân hỏi một vài chỗ khó hiểu trong
bộ kinh Lăng Già”. Thì ra vậy, chứ tôi với sư Độ coi nhau như kẻ thù, ông ấy
tha véo tai, đá đít cũng đã may lắm rồi…
Vào
dịp chùa khai hạ, các bậc đàn anh làng Yên, nhất là bên thôn Đoài thường lảng
vảng quanh Tam quan tán tỉnh các ni sư vừa trẻ vừa xinh đẹp chẳng biết vì cơn
cớ gì mà khoác nâu sồng nương nhờ cửa phật. Anh Q làm ở báo tỉnh, đeo trước
ngực chiếc máy ảnh to đùng tìm cách chụp trộm người đẹp. Nhưng anh Ch., đang
học trường mỹ thuật có khoa tán gái bài bản hơn, lại thỉnh thoảng vẽ chân dung
nàng nên thắng lợi toàn tập. Chưa hết khóa tu, chàng đã kéo được “nữ bồ tát” ra
khỏi tự làm đám cưới…
Cũng
thời gian ấy, chùa nhận về hai tiểu hòa thượng. Một chú tên là Tới vào khoảng
mười, mười một tuổi, hay ra Tam quan chơi với đám học sinh. Chẳng biết bọn
thằng Dần, thằng Thúng xóm Cầu Đá xui khôn xui dại thế nào mà mỗi khi gặp cụ
Nhính trụ trì tiểu ta cứ nằng nặc đòi phá giới lấy vợ…
Lại
nói đến những anh tài lớp tôi. Hình như núp mái Tam quan có một số học trò được
Đức Phật phù hộ độ trì cho thành danh. T. Cò, Lê Quang Thung đã kể ở phần
trước. Giờ đến một nhân vật cũng quan trọng không kém từng giữ vai trò lớp phó
văn nghệ nổi tiếng một thời. Đó là PSĐ. PSĐ hơn tôi đến bốn, năm tuổi, người
thấp đậm, dáng lực điền, không mấy đẹp trai nhưng có giọng hát baritone truyền
cảm và nhất là khoa diễn thuyết cực kỳ hấp dẫn.
Là
con một ông thầy cúng nổi tiếng ở làng Yên, nhưng PSĐ lại là thành phần tích
cực của phong trào “xây dựng nếp sống mới” sau khi được Huyện đoàn cho đi bồi
dưỡng lớp ngắn hạn về nhân sinh quan và thế giới quan con người mới xã hội chủ
nghĩa. Về làng, mỗi khi đăng đàn chém gió trước chi Đoàn Thanh niên, bao giờ
PSĐ cũng lấy nhân vật Pavel Korchagin trong tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy”
làm dẫn chứng cho tinh thần tiến công cách mạng của người thanh niên cộng sản.
Cũng xin nói thêm, thời kỳ này, khi mà học sinh được lôi kéo vào chiến dịch
chống mê tín dị đoan, PSĐ là người tham gia nhiệt tình nhất trong việc đập phá
đình Cả, chùa Đa Đinh và nhất là ngôi nghè cổ có niên đại gần ba trăm năm lấy
gỗ làm trụ sở Ủy ban Hành chính xã và bàn ghế học sinh. Cuối năm 1966 thì PSĐ
đi Thanh niên Xung phong. Từ đấy tôi không nhận được tin tức gì về người bạn
đồng môn.
Giữa
năm 1977, nhân chuyến tôi đến thăm bạn Nguyễn Đình Hương ở Khoa Báo chí Trường
Tuyên huấn Trung ương, bất ngờ lại gặp PSĐ với tư cách giảng viên Khoa Tuyên
truyền. Thật ra, chuyện này chẳng có gì là ngạc nhiên cả. Trời phú cho ông bạn
tôi “khoa lợi khẩu”, và ngành Tuyên huấn đã chọn đúng người, sử dụng đúng sở
trường, vậy thôi.
Bẵng
đi hơn chục năm, một lần tôi về làng nhận được thông tin, PSĐ đã nghỉ chế độ
mất sức vì vợ sinh con thứ ba. Tôi ái ngại chép miệng, một tài năng tuyên giáo
bẩm sinh như thế mà Đảng cho giải nhiệm, tiếc lắm thay. Về vườn, PSĐ được cử
vào ban tang lễ của làng, chuyên đọc điếu văn cho người quá cố, giọng đọc lên
bổng xuống trầm rất chi là lâm ly, thống thiết.
Lại
hơn chục năm nữa. Giờ thì PSĐ đã lên lão, nghe người làng nói, hàng ngày ông
xách chuông, mõ, thanh la và đủ các loại bùa vẽ hình bát quái đi tróc ma, trừ
quỷ cho đám nhân quần mê muội vốn nhiều nghiệp chướng. Nghề này nghe nói kiếm
ăn cũng khá. Gặp khách sộp, nhất là những quan chức tay trót nhúng chàm không
gột rửa được ở dương gian, nhưng lại muốn thoát khỏi khổ hình bị nung trong LÒ
TÔN dưới địa phủ, nên đem thứ tiền bẩn ấy hối lộ thánh thần, thì hôm ấy coi như
thần tài gõ cửa…
Cho
dù thoát khỏi cơn “biến động nhân gian” bài trừ mê tín dị đoan năm 1958, nhưng
đến thời điểm cao trào hợp tác xã nông nghiệp, chùa Vĩnh Khánh vẫn bị gặm mất
15 gian làm kho và sân phơi lúa. Đầu tiên là nhà tạo soạn, nơi các sư tăng nấu
ăn thường nhật và làm cỗ chay đãi khách thập phương mỗi khi chùa vào khóa lễ.
Ngôi nhà năm gian, tường gạch chỉ, ngói mũi hài nhuốm màu thời gian, vậy mà chỉ
trong chốc lát thành bình địa. Tiếp đến là nhà xay lúa, giã gạo đều “giải phóng
mặt bằng” nhường không gian cho trụ sở Ban Quản trị.
Khuôn
viên tự vốn thâm u, thanh tịnh giờ trở thành nơi sầm uất theo cái nghĩa hỗn tạp
của mọi hoạt động xã hội suốt ngày đêm. Ao sen nằm kề ngay sân gạch Bát Tràng
cung cấp lá và hoa cho việc cúng dường đương nhiên trở thành tài sản hợp tác
xã, một thứ cha chung không ai khóc nên chỉ sau mấy vụ hè, sen chùa mất giống.
Liên tử bị đào tận gốc, trốc tận rễ không còn nguồn thu, các nhà lãnh đạo Hợp
tác xã trứ danh nghĩ ra sáng kiến thả cá, trên bờ cắm chiếc biển to đùng viết
sơn nguệch ngoạc “Cấm mọi hình thức đánh bắt cá”. Ừ thì cấm, nhưng anh Ba Cò
vẫn bí mật cắm rọ cá rô và mỗi phiên chợ Rồng chị Ba vẫn có cá bán.
Vui
nhộn nhất là chuyện tát ao. Làng Yên thuộc vùng đồng chiêm trũng, mùa mưa nước
ngập không lối thoát. Các cụ bèn nghĩ ra cách vật đất đắp nền cho cao rồi mới
làm nhà. Đời nọ truyền đời kia, cuối cùng hình thành cả một chuỗi ao chuôm to
nhỏ khác nhau với hai chức năng chứa nước và thả bèo nuôi lợn. Cá hoàn toàn là
tự nhiên, không ai thả nhưng khá nhiều và đủ loại. Vào mùa khô, cuối năm âm
lịch dân làng mới thu hoạch. Dịp ấy rét thấu xương nhưng đã thành thông lệ, cá
cũng là nguồn thực phẩm bổ sung cho cái tết quê nghèo.
Nhưng
đến thời điểm “hợp tác là nhà, xã viên là chủ” thì ao trở thành tài sản công.
Hầu hết ao to, ao nhỏ, thùng vũng trong làng cũng như ngoài đồng đều thuộc sở
hữu tập thể. Anh nào lớ xớ động vào rất có thể bị phạt vạ. Ba Cò và Trịnh Doãng
vốn là những tay đầu bò trên không sợ giời dưới không sợ đất mà cũng chỉ lần mò
thả rọ ban đêm chứ không dám công khai ban ngày.
Ao
chùa cũng không được miễn trừ, thậm chí có thời kỳ chủ nhiệm H. còn bắt các sư
phải vào Hợp tác xã, đi làm theo tiếng kẻng như xã viên. Vì đã mất quyền sở hữu
nên xã viên chỉ trông chờ cuối năm Hợp tác xã tát ao. Ao chưa cạn đã có hàng
trăm người kể cả trẻ con, đồ nghề sẵn trong tay chầu chực xung quanh. Nước vừa
rút, các loại cá trắng, cá đen, rùa, ếch, ba ba, rắn… cuống cuồng chạy trên mặt
bùn lõng bõng, là lúc các tay thợ chuyên nghiệp tóm gọn từng chú quăng vào mấy
chiếc giành lớn kéo lệt sệt mặt bùn. Lão đội trường Kh. lé cầm cây sào dài, mắt
trước mắt sau, chốc chốc lại đập một phát làm cho đám bùn nhão bốc mùi thum
thủm bay tung tóe để thị uy. Có những lần, dù chưa được lệnh “tháo khoán”, đám
người trên bờ đã ào ào lao xuống như một cơn lốc khiến cả Ban Quản trị và cánh
bảo vệ chịu phép. Một cuộc giành giật sắt máu với quyết tâm “một tấc không đi
một ly không rời” khiến khối kẻ bươu đầu sứt trán. Tôi còn nhớ, hôm ở ao chùa,
thằng Thuận trố mò được con chuối sộp to bằng bắp chân nhưng bị rách một bên
tai vì nện nhau với thằng Đức rỗ. Lúc tàn cuộc, người ta lại tháo nước vào ao,
còn đám chúng sinh “ăn mày Hợp tác xã” nhất loạt như vừa tắm bùn. Có những hôm
rét căm căm, nhiệt độ ngoài trời chỉ khoảng 11, 12 độ C nhưng đám choai choai
chúng tôi chẳng đứa nào bỏ cuộc.
Gia
vị cho món cá tươi không thiếu. Hàng rào tre đầy măng mới nhú, nhà ông Đà phía
đầu làng có cây me to vật vã, cuối xóm Cầu Đá, cô Tơ có cây khế chua cổ thụ. Cá
rô cá quả kho khế, cá thiểu cá trê kho măng, còn cá giếc rán lên nấu canh chua
me ăn miễn chê.
Cho
đến hôm nay tôi vẫn nhớ như in những cuộc “hôi cá” Hợp tác xã ngoạn mục như
thế. Nó một đi không trở lại. Tất cả đã trở thành hoài niệm…
Gọi
tên “Tam quan” nhưng ở chùa Vĩnh Khánh lại không phải “cổng” ra vào có ba cửa
như thông lệ mà là một tòa kiến trúc khá hoành tráng thuộc thiền phái Trúc Lâm,
mái ngói âm dương, đầu đao cong vút, trên tầng gác được xây cất toàn bằng gỗ
lim xanh giống như một “nghênh phong các” là nơi sớm chiều chú tiểu leo lên
chiếc thang vừa to vừa dài bằng tre lồng ngộc thỉnh chuông.
Từ
xưa, người ta hiểu Tam quan theo hai cách. Thứ nhất, Tam quan (三觀)
mang ý niệm “ba cách nhìn” của Phật giáo Đại Thừa gồm “hữu quan” (有觀),
“không quan” (空觀) và “trung quan” (中觀), thể hiện cái sắc
(色 giả), cái không 空 (tức vô thường 無常)
và trung dung (中庸) của cả hai. Cách giải thích thứ hai Tam quan (三關)
là cửa của Tam bảo (三寶). Mà Tam bảo gồm ba thứ Phật, Pháp, Tăng. Có mấy
cách hiểu các khái niệm này. Gần đây, hòa thượng Thích Thanh Từ giải thích,
Phật thuộc về quá khứ, Pháp là những quy ước căn bản như giới luật của đạo cần
phải tôn trọng, giữ gìn, còn Tăng là các thầy chùa phụng sự Phật, Pháp. Vì thế,
cúng dường là một hình thức cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi sống tầng lớp
tăng lữ để phụng sự Phật, Pháp.
Tam
bảo chùa Vĩnh Khánh còn là nơi duy nhất trong địa hạt Hải Dương tàng trữ kho
ván 1.654 mặt khắc (mộc bản) của 40 bộ Kinh Phật, về quy mô và số lượng chỉ xếp
sau chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang.
Tam
quan chùa Trăm Gian như một tấm bình phong án ngữ phía trước Tam bảo, chỉ cách
Tam bảo một khoảng sân hẹp trồng hai cây hải đường. Trước cửa Tam quan có một
khoảnh vườn khá rộng trồng mấy cây cau cảnh, cây vạn tuế xen kẽ những luống
đất, hố đào nham nhở trông có vẻ tang thương. Cỏ các loại mọc len lỏi, phủ lên
cả đống bia đá chẳng hiểu vì sao được xếp một cách lộn xộn nơi góc tường. Có
lần tôi tò mò muốn xem trong đó viết gì. Hầu hết các bia đều cùng kiểu dáng,
niên đại cuối triều Nguyễn, ghi chép những lần trùng tu và danh tính thiện nam
tín nữ công đức nhưng chữ xấu, lại khắc nông rất khó đọc. Tiếp sau là ao chùa
phía Tây, hàng rào tre bảo vệ rồi mới đến đường làng. Nói không quá chút nào,
đây là khuôn viên trước cửa Tam quan một ngôi cổ tự danh tiếng thuộc loại tiêu
điều, xơ xác bậc nhất mà tôi từng thấy ở vùng Đồng bằng Bắc bộ.
Cổng
chùa cách Tam quan chừng năm chục thước, lệch hướng Nam tiếp với đường làng,
trước đây cũng là một công trình kiến trúc bề thế có cả tầng lầu gồm một cổng
chính, hai cổng phụ. Tuy nhiên, toàn bộ khối chóp tầng lầu bị trận lốc năm Bính
Thân (1956) bốc đi cách xa hơn trăm mét. Phần còn lại, thời kỳ hợp tác hóa nông
nghiệp phá dỡ. Chiếc cổng nhỏ nhìn rất không tương xứng với quy mô chùa Vĩnh
Khánh hiện nay được dựng lại cách đây vài chục năm bằng tiền công đức của những
nhà hảo tâm.
Nhưng
kỳ quái hơn vẫn là những công trình bê tông chắp vá tạp nham sơn phết lòe loẹt
vào phần chùa bị hủy hoại thời kỳ hợp tác xã nông nghiệp theo phương châm câu
slogan nổi tiếng “mỗi người làm việc bằng hai” bị bọn “thế lực thù địch” láo
lếu xuyên tạc: “Mỗi người làm việc bằng hai/ Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe”,
hay “Mỗi người làm việc bằng ba/ Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân”. Còn nơi
công sở thì sự giễu nhại mang âm hưởng tự trào của giới công chức “sớm xách ô
đi, tối xách ô về” có “văn hóa” hơn:
“Bốn
người làm việc bằng hai
Ăn
thì bằng tám nói dai bằng mười”…
Nhưng
đấy là chuyện xưa rồi. Còn bây giờ, nói thật, mỗi khi nhìn cái công trình bê tông
kệch cỡm nhô ra giữa ao chẳng biết gọi tên là gì, không chỉ riêng tôi mà hầu
hết khách thập phương đều ngứa mắt. Nó là sản phẩm của thứ tư duy thiển cận bởi
phông văn hóa mỏng và thói trưởng giả học làm sang.
Nhưng
phản cảm nhất vẫn là cách hành xử của các loại vãi già, vãi non trong mối quan
hệ với sư trụ trì và khách viếng thăm chùa.
Hầu
hết các bà già hay nạ dòng, ở nhà chửi chồng như hát hay nhưng ra chùa lại lễ
phép rất mực gọi ông sư trụ trì chỉ đáng tuổi con cháu mình là “thầy” xưng
“con” ngọt như mía lùi. Trong khi ấy, đám vãi non lảng vảng quanh tự đầu mày
cuối mắt, lúng liếng như Thị Màu… Cách đây mấy chục năm, mọi việc trong chùa sư
đều tự làm. Ngày nay các thầy được nâng niu, cưng chiều như ong chúa. Mọi sự
đã có các vãi lo. Chồng, con, cháu chắt ở nhà có thể đói, rách nhưng “thầy” thì
phải ăn ngon, mặc đẹp. Ăn xong lập tức có “nữ thí chủ” xinh đẹp pha nước, lấy
tăm hầu tận nơi. Hơn thế nữa, ăn chay chỉ có tính tượng trưng tháng đôi lần cho
phải phép. Đã gọi là “thầy” phải có “xế hộp” xịn, tăng phòng lúc nào cũng trữ
sắn vài hũ rượu “chay” ngâm tam xà, ngũ xà, dăm két bia… bồi bổ gân cốt sau mỗi
khóa lễ dâng sao giải hạn cho phật tử trong làng. Ngoài ra, cà phê, chè Thái để
nhà chùa giải khát là thứ không thể thiếu, luôn được các vãi cung cấp đầy đủ.
Còn thủ tục liệm người quá cố ư? Tang chủ hãy chuẩn bị sẵn chiếc “phong vằn”
(phong bì viền xanh đỏ vằn vèo) nhét vào đấy ít nhất 500 k “hiếu kính” thầy,
hồn người chết mới thoát khỏi đám ngạ quỷ bên cầu Nại Hà quấy nhiễu.
Cách
đây mấy năm, tôi về làng, theo thói quen vào vãng cảnh chùa, bởi cứ nghĩ, tự là
của chung, ai cũng có thể vào lễ Phật. Nhưng giờ thì tôi đã nhầm. Khi đang lẩm
nhẩm đọc mấy câu đối trong Tam bảo thì một bà vãi xuất hiện, nét mặt cong cớn
giọng sừng sộ: “Ông là ai mà dám tự tiện vào chùa?”. Tôi thầm nghĩ, chắc bà vãi
này người thiên hạ lấy chồng về thôn Đông không biết tôi nên nhẹ nhàng nói:
“Tôi là khách thập phương muốn vào thăm chùa, lễ Phật”. Bà ta lập tức vặn vẹo:
“Đã trình với thầy chưa?”. Tôi bảo: “Chưa gặp sư trụ trì”. Đến đây thì tôi mới
hiểu câu tục ngữ “chó cậy nhà gà cậy chuồng” là thế nào khi bà vãi giở giọng
hàng tôm hàng cá chẳng có vẻ gì của một tín nữ nơi cửa Phật: “Mời ông ra khỏi
tự! Ông cứ lảng vảng ở đây, chùa mất đồ vật lại liên quan đến chúng tôi”…
Đại
loại các bà vãi thời nay là như vậy. Vãi hầu sư từ A đến Z, sư chỉ ngồi trai
phòng thụ hưởng công đức vô lượng của đám chúng sinh mê muội nên vãi đương
nhiên có quyền trước chư phật chốn thiền môn. Viết đến đây, bất giác lại nhớ
đến bài thơ TU HÚ tuyệt hảo của nữ sĩ Maria Hoàn Nguyễn, xin lấy làm lời kết
cho loạt bài này:
Nghĩ cái đường
tu cũng vắt veo
Lắt
léo vần xoay đến lộn lèo
Trở
gió tu thành ma phá giới
Chũm
chọe tang tình móc kẽ rêu
*
Trọc đầu
lông lốc vẫn tình đeo
Ấy
thế tụng kinh vẫn ỉ eo
Trần
tục đầm đìa chưa thoát gốc
Qua
cửa Tam quan vẫn thoắt trèo.
Bến
Tắm, mùa vải chín, tu hú gọi bầy
Đ.V.S.
Đặng Văn Sinh (tạp bút)
304Đen
– Llttm – VV
No comments:
Post a Comment