Tiếng Rao Miệt Vườn
Buổi
trưa miệt vườn lặng trang dưới nắng con kiến vàng còn kiếm chỗ trốn dưới tán
mận hồng đào, con nhện cũng phải buồn không thèm nhả tơ mà nằm ép bụng vào lung
lá cây điều đỏ. Một thiếu nữ rỗi nghề ngủ trưa ngoài võng trước hiên nhà… Một
cụ bà đắn đo chiều dài độ tuổi, bà nhặt nhạnh và hái từng cây củi khô dành cho
buổi cơm chiều, có lẽ?
Ngõ
vào thôn nào có xa xôi gì? Tiếng còi xe còn thở dài nghe được. Văng vẳng có
tiếng rao giong kim:
–
Ai ăn bánh ít không?
Gió
se qua tán mận chờ đợi, tiếng rao gần hơn:
–
… Ai ăn bánh ít, bánh tét… nhưn đậu, nhưng mỡ, nhưng chuối, nhưn dừa…
hôn? …
Nó,
đứa con gái nào đó vừa chớm tuổi dậy thì, có lẽ nhà nó cũng nghèo, chí ít cũng
vào loại vừa đủ ăn, chứ giàu có thì ai bán bưng bán đội?! Vâng, nó không biết
rằng ở xóm này có một bé gái như nó, buổi sáng đi học, buổi chiều cũng đi bán
bánh ít, bánh tét cho bà ngoại, tôi hay ghẹo nó là “… Anh Hiệp”. Bởi vì “Anh
Hiệp” thỏn thẻn ở cái tuổi mười hai, mười ba chưa biết mắc cỡ, còn mặc quần
đùi, cắt tóc ngắn, đi chân không… “Anh Hiệp” không cất tiếng rao mời như cô bé
giọng kim, mà mang đi từng nhà. Một xề với mươi đòn bánh tét, chục bánh ít…
“Anh Hiệp” cứ mang đến dì Ba, cô Mười, cậu Tư, cậu Bảy… là hết, tiền đếm được
trong túi chắc cũng được mươi, mười lăm ngàn. Nhưng đâu phải hôm nào cũng bán
đắt? Có bữa, trời chạng vạng rồi mà tôi còn thấy Hiệp bưng xề bánh về nhà, cái
mặt nó buồn như bông nhãn chiều mưa!
Thảng
dưới chân thời gian, kéo dài về những tháng mười năm nẳm, khi mùa nước nổi tràn
bờ, có người ngẫu hứng làm thơ:
“Tháng
mười nước nổi sân đằng trước
Em bước sang nhà lấm gót chân…”
Ở đâu
đó trong kẹt lá, giọt sương còn chưa buông, đã nghe tiếng rao tràn qua buổi
sáng:
–
Cá linh hôn… ?
Tiếng
rao ngọt ngào mà lấp lánh màu vẩy cá linh già mùa bông so đũa, tiếng rao như
nhắc nhở các bà nội trợ phải biết bấm hầu, nặn mật con cá rồi đem kho khế, kho
mía, kho mẳn, nấu chua… cho chồng có buổi cơm trưa ngon miệng sau nửa ngày trời
không kịp nghỉ tay bồi gốc mận, bón phân nhãn… Và buổi trưa cũng già, cơn mưa
chiều cũng sắp theo triều kéo đến, lại một giọng rao tự nhiên như cuộc đời phải
vậy:
–
Ve chai… lông vịt!… thau nhôm… mủ bể… bán hôn?
Thời
nay thì người đi mua ve chai, lông vịt lại phải gánh gồng một ít đồ dùng như
thau nhựa, chảo gang, xoong nhôm, dép mủ… và tiếng rao khác đi chút ít, rao
rằng:
–
Ve chai… lông vịt… Đồ cũ đổi đồ mới không?
Cũng
những ngày tháng đơn lẻ tiếng rao ấy, có lúc người ta còn nghe cả tiếng tiêu
thiến heo, điệp vận với tiếng ve sầu rúc vào ngõ ngách của làng quê. Và thật
may mắn cho ông thợ thiến heo nào đó, được thiến mở hàng bằng một con chó. Tôi
có quen một anh thợ, anh cho tôi biết:” … Bữa nào thiến xong con chó mở hàng,
thì bữa đó thiến heo mỏi tay cũng còmn người gọi…”. Bây giờ thì thoảng mới nghe
tiếng tiêu buồn buồn ấy, vì công việc này cập nhật vào số tay các trạm thú y.
Năm
nào cũng vậy, cái mùa nước rong tháng Mười rồi cũng ròng ra biển, nắng ráo
đường bờ. Người ta lại thấy một người đạp xe đạp, gác đôi thùng nhôm lên chiếc
đòn được cột dính ở yên sau. Bằng chất giọng đàn ông đục màu phù sa, người ấy
cất tiếng rao, làm con trao trảo giật mình bay trốn vào tán cây trứng cá. Rao
rằng:
–
Cá vồ nuôi hôn…?
Ngấn ngấn ban trưa, từ máy phát thanh của nhà ai đó, giọng ca ngọt ngào,
trẻ trung của đệ nhất danh ca Út Trà Ôn đang xướng giọng câu một bài hát “Tình Anh Bán Chiếu” của nghệ sỹ Viễn Châu.
Và người nghe cái tình bài hát cũng buồn nào kém tiếng rao trưa:
–
Chiếu hôn?…
Vậy
rồi những quán “thịt cầy bảy món” mọc lên như nấm, tỷ lệ thuận với mật độ dân
cư, thì người bán chiếu năm xưa, nay cũng đổi tiếng rao, mà theo tánh linh của
con chó cho hay có chuyện ác cảm chẳng lành. Lũ chó rủ nhau tru tréo phía sau
tiếng rao, làm cho không khí rộn vang khắp ngõ. Họ rao như vầy:
–
Chiếu đổi chó hôn…?… Chiếu hôn?…
Có
nghĩa là vừa bán chiếu, vừa mang chiếu đổi chó, rồi mới đem chó bán cho quán
thịt cầy. Thế là rựa mận, xào lăn, nướng vỉ, bó xổ, hon, lẩu… nóng hổi trên bàn
thực khách đưa cay. Người ta nói: Những ai đi đổi chó thì phải manh trong người
một sợi râu cọp, một móng cọp hay một miếng da cọp… để khi chộp cổ chó, con chó
mới run mà sợ đến té đái!… Xoong, nồi cũng được chở theo xe đạp để đi đổi chó.
Họ rao:
–
Chó đổi xoong nồi hôn?…
Thường
thì nhà ai cũng có những món đồ hư, đồ cũ, đồ bể… xuất phát từ phố chợ, nghề
mua đồ cũ hình thành. Và tiếng rao du nhập vào các ngõ đường quê, tiếng rao dài
như mười vòng xích líp xe đạp.
–
Đồng hồ hư, quạt máy hư, tủ lạnh, tivi, cát sét hư, bàn ủi điện, máy giặt
hư, tăng phô hư, bình điện hư… bán hôn ?…
Không
có cái gì bằng kim loại bị hư hỏng hoặc cũ mà họ không mua. Mua tất, có lẽ cái
mẻ kho Thạch Sùng chắt lưỡi cũng có thể được mua hoặc lượm về để thổi vàng, nấu
bạc… Đó là tiếng rao thượng vàng hạ cám ngày nay. Tiếng rao như xoi mói lên tàn
cây vú sữa, như chọt chĩa vào những thế kỷ cổ sơ. Họ rao:
–
Đồng tiền xưa, bạc cắc xưa, đồng hồ đeo tay cũ, đồng hồ xưa, lục bình cũ,
lư đồng, lư thau, kẽm gai, sắt vụn, phim phổi cũ… bán hôn …?
Và
cái nghề thu mua đồ cũ nghiễm nhiên ở một vị trí quan trọng trong tiếng rao để
mua. Cạnh nhà tôi có anh Ba Khoa cũng làm cái nghề thu gom đồ cũ, đồ hư… ấy.
Anh biết phân kim lấy bạc từ những tấm phim X quang, đến những phụ kiện trong
loại máy truyền tin và vi tính IBM cũ… Anh nói: “Nhiều khi mua được những vỏ
đồng hồ cũ như Tugaric, Willer… có lốc kê vàng 14… đem về mình lột ra cũng có
lời…”. Nhưng ngày đó là ngày trúng mánh và không ít hôm dầm mưa dãi nắng… đạp
xe tháo mồ hôi hột, lột da chân mà cũng chẳng mua được một món đồ có giá trị
ngầm, ngoài những thứ rác rưởi khác, ngày đó coi như lỗ nặng, lỗ đến thâm kim
con mắt ếch.
Trở
lại với tiếng rao để bán, còn phải kể đến những người bán chổi lông gà để quét
nóc nhà (chổi sào), quét bàn, chổi làm bằng dây nilon, chổi chà làm bằng cọng
dừa, tàu cau, lá ráng… và họ còn đèo theo trên xe đạp những cái lồng trúc…
thoạt trong họ đèo, họ mang đã là vất vả rồi, đừng nói gì đến đoạn đường dài
trong ngày phải đạp và rao:
–
Chổi hôn?
Anh
Bảy Thôi, người ở tận Châu Đốc đến ở trọ trong xóm tôi, là người đã nhiều năm
trong nghề, cho biết: “Có ngày anh đi từ đây (ấp 7 – Đạo Thạnh Mỹ Tho), sang
đến tận Ba Tri, rồi vòng qua Chợ Lách (Bến Tre)… trở về. Cũng có khi anh ngược
về Long An, vô tận Cần Giuộc, Cần Đước. Bình quân mỗi ngày anh đạp cả trăm km
đường cả đi lẫn về. Ngày nào trúng thì bán được dăm ba chục cây chổi, kiếm lời
khoảng bốn năm chục ngàn. Còn ngày đói bụng thì coi như đói bụng, mỏi chân…
chán chường húp nước đá lạnh, hút thuốc gùi trong những quán nghèo thôn nội.
Tương
tợ như họ, lại còn số người đi bán rao không có chữ “hôn”. Họ rao:
–
Bơm gaz, sửa quẹt…
–
Bật lửa, bơm gaz…
Đi
bán vé số cũng là một kế sinh nhai của những ai cam phần thôi nghề, thất
nghiệp. Có người đi bộ, có người đạp xe. Và tiếng rao cũng rải dài theo những
đoạn đường quê nắng mưa thắc thỏm đồng lời.
–
Vé số đây…
Không
ai rao “vé số hôn”. Và mỗi ngày rải niềm hy vọng cho 100 người họ cũng kiếm lời
được 26.000 đồng, gọi là cũng đủ no cơm ngày đó.
Có
một chút tuổi thơ của tôi còn sót rớt đâu đó trên những lá mận hồng đào kiến
đụt, cái thuở mỏng mảnh gió sớm sương khuya… văng vẳng từ con lộ nhựa Nguyễn
Tri Phương (đường Ấp Bắc, Mỹ Tho, Tiền Giang bây giờ) vọng đến tai tôi đang còn
ngái ngủ, là những tiếng rao xa xa mà nghe âm ấm chân răng mình.
–
Bánh mì đây, bánh mì nóng giòn, bánh mì đây…
Và
rồi đến tôi cũng lộp cộp cái thùng mốt và leng keng cái chuông bằng thau, lội
bộ xuống hãng kem Hương Cảng, đếm cà rem thẻ về đi bán rao. Tôi ít rao mà lắc
chuông thì nhiều, thỉnh thoảng cũng trổ giọng thổ ra mà rao:
–
Cà rem đây – cà rem đậu xanh đây…
Ấy là
cái thời tôi lên bảy lên mười chứ còn bây giờ, ngoài những ai đạp xe chở thùng
cà rem phía sau và lắc cái chuông rõ bự phía trước tay cầm, thỉnh thảng họ còn
cất tiếng rao mời:
–
Cà rem đậu xanh, nước cốt dừa, đường cát đây…
Còn
lại thì họ đạp xe thùng xập xình tiếng nhạc hoặc rò rè điệp khúc của Wals, thay
cho những tiếng rao khản giọng, khàn hơi. Có lẽ một vài người già bị phá giấc
ngủ trưa mà đâm ra bực bội những tiếng nhạc rao mời đôi khi khiếm nhã ấy.
Và
cũng đôi khi mắc cười với những giọng rao nhao nhào giữa trưa nghe không rõ
tiếng:
–
Ai ngủ hôn?
Không
phải đâu! Đó là tiếng rao của chị bán tàu hũ, nước đường lá dứa. Lại gần nghe
kỹ mới biết là chị rao: “Ai ăn tàu hũ hôn”. Lại có những câu rao, nghĩ ngẫm mà
nghe mắc cười. Rằng:
–
Đúc lọt hôn?
Đó là
“ai ăn bánh đúc, bánh lọt hôn?”. Lại có một giọng đàn ông người miền Bắc thì
rao rằng: “Chưn đạp gai tét giò đây” phải hiểu giùm tiếng rao ấy là: Bánh
chưng, bánh đạp, bánh gai, bánh tét, bánh giò… Và trên đường vào Phú Mỹ, có lần
tôi nghe tiếng rao lẫn trong bụi đỏ đường chiều:
–
Lò hôn?
Thoắt
nghe bằng suy nghĩ khôi hài nói ngược thì không sao nhịn cười. Ấy vậy mà khi
cuốc bộ đến gần thì tôi mới biết sự suy nghĩ để cười của mình là xúc xiểm người
già, tôi tự trách mình vô lễ với cụ già luống tuổi có hàm râu thưa, đang nặng
nhọc kéo chiếc xe lò đất nung sau lưng; giá như tôi có tiền sẵn trong túi, chắc
rằng tôi phải mua giúp ông già một cái lò than ấy để chuộc lỗi và để ông vơi
bớt nặng nhọc. Cũng giọng nói người già rao mời:
–
Dao à kéo…
Cụ
già lưng còng tóc bạc ấy vẫn phải kề vai mà vác trên một cái chân bò gỗ, lỉnh
kỉnh những đá mài, đá quay, ê tô, kềm, giũa và dao mài sắt… Hằng ngày cụ vẫn
lội bộ như vậy, để đi mài sắt cho người đời từng con dao, cái kéo. Tôi cảm thấy
vai mình đau đáu dáng ông đi.
Tôi
lại lầm lũi đi về trong cái tiếng “hôn” thật xa, mà ngọt ngào như mận chín quê
mình. Tiếng rao của chị bán chè như câu hò bên mé kia bờ sông Bảo Định:
–
Ai ăn chè đậu đen, nước cốt dừa, đường cát hôn?
Và
tôi biết ở miệt vườn quê tôi, một vùng ven thị xã Mỹ Tho ngày xưa, nay đã mọc
nhiều hơn những mái nhà mới được ra riêng, tiếng rao có lúc lẫn khuất trong
ngày xưa tuổi nhỏ, mà cũng có khi rờn rợn cõi lòng giữa buổi trưa nay! Thế mà
cũng có người đi bán hàng rong miệt vườn không cất lên tiếng rao. Đó là những
anh, những chị đi bán bong bóng, bán đồ chơi trẻ em… Lỉnh kỉnh trên xe đạp thôi
thì lỉnh kỉnh những món đồ nhựa cùng với mấy gói kẹo me, kẹo bọc đường… Rồi
bong bóng bày, giắt suốt từ đằng trước ra sau, che lấp cả chu hàng.
Tất
cả là để có manh áo, bát cơm, tất cả là để mưu cầu cuộc sống gia đình không
nhiều thì ít, cũng được phần tươm tất. Họ chính là những người tự trọng và
khiêm tốn trước cuộc đời. Tiếng rao và bước chân của họ đã làm xôn xao chốn
miệt vườn, góp phần làm đẹp cuộc sống. Tôi quí trọng họ, quí trọng tiếng rao
mời dù rằng không có tiền mua cũng chẳng có gì để bán cho họ. Tôi chỉ cất giữ
trong tôi niềm vui ấy trong yên tĩnh miệt vườn! Như tôi đã từng cất giữ tiếng
chim rúc ra, rúc rích trên chót đọt cây sọp già trong mùa sọp chín.
Nguyễn Chi
(Trích từ tuyển tập Hương Đồng Quê)
304Đen – llttm - tvvn
No comments:
Post a Comment