Hồ
Hữu Tường (1910-1980):
chính trị gia, nhà văn, nhà báo. Theo học tại Đại học Marseille và nạp luận án
thi Cao học Toán tại Đại học Lyon. Tại Pháp ông kết bạn và tham gia hoạt động
chính trị với những nhà ái quốc lưu vong như Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn
Trường, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm.
Năm
1953, Hồ Hữu Tường đưa ra giải pháp Trung lập chế (Neutrality). Năm sau ông
sang dự hội nghị Genève, ra sức vận động cho giải pháp trung lập Việt Nam nhưng
không thành công. Năm 1955, Hồ Hữu Tường bị bắt vì làm cố vấn cho Mặt trận
Thống nhứt Toàn lực Quốc gia (Cao Đài, Hòa Hảo, Lực lượng Bình Xuyên) chống lại
chính phủ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm.
Năm
1957, Hồ Hữu Tường bị kết án tử hình, nhưng nhờ Albert Camus và những trí thức
khác như thủ tướng Ấn Độ Nehru viết thư can thiệp nên chỉ bị đày ra Côn Đảo.
Sau khi Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam sụp đổ, Hồ Hữu Tường được trả tự do .
Năm
1965, Phó Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và chủ bút tuần báo Hòa đồng’.
Năm
1967, Hồ Hữu Tường trúng cử dân biểu đối lập trong Hạ viện Quốc hội Việt Nam
Cộng Hòa, thời gian này ông tham gia viết bài cho các tờ báo: Tiếng Nói Dân
tộc, Quyết Tiến, Đuốc Nhà Nam, Tin Sáng, Sài gòn Mới, Điện Tín v.v…
Sau
30 tháng 4 năm 1975, Hồ Hữu Tường bị chính quyền mới bắt đưa đi học tập cải tạo
Khi ông bệnh nặng, khó có thể cứu chữa thì được trả tự do và mất vài ngày sau
đó (26 tháng 6 năm 1980) tại Sài Gòn.
1.
Giữa
một đường truông thăm thẳm, vắng vẻ và âm u, không một xóm nhà, ít người qua
lại, có một cái am nhỏ. Am ấy mới cất, độ non ba năm thôi. Trong am, chỉ có một
sư cụ già, thui thủi một mình, quanh năm chẳng được ai thăm viếng. Trước am,
nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn, vừa cao ngất, củi sắp vuông vắn,
thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng khác một vườn kiểng do một vị lão
trưởng giả chăm nom.
Một
hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp, thì có hai người khách
đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng:
–Bạch
sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới dõi đến đây. Mong nhờ sư cụ cho tá
túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.
Nhà
sư ung dung, chắp tay đáp:
–Mô
Phật, cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước.
Rồi
dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui đương sôi nổi trong lòng, nhà sư
tiếp:
–Ngót
ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được một ai đến viếng. Ngày nay là ngày
ước nguyện, may được hai ngài quá bước, ghé nghỉ chân. Âu cũng là duyên trước….
Nói
xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn
khách đến câu hỏi:
–Bạch
sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào?
Vui
sướng, vì như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp:
–Tôi
quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng đã viếng khắp nơi. Cách
ba năm nay, lòng huệ được mở ra…. Và từ ấy, tôi chỉ tụng kinh Di Lặc.
Một
người khách hỏi:
–Sư
cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng?
–Mô
Phật. Chỉ có lời nói mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời? Vậy tôi xin vui
lòng nói cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy rằng Phật Thích
Ca khi đắc đạo, có dạy: Hai ngàn năm trăm năm về sau, Phật pháp sẽ đến chỗ chi
ly, ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống trần mà cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo
lại. Nay cũng đã gần đến kỳ hạn. Chắc là Phật Di Lặc đã xuống trần mà độ kẻ
thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần kinh Di Lặc.
Nếu lời nguyện được y, ấy là tôi sẽ đắc đạo.
Người
khách thứ hai hỏi:
–Sư
cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi?
–Đã
được chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây giờ, chỉ còn lần thứ một nghìn; lần
tụng của đêm nay. Chắc hai ngài trước có duyên lành, đêm nay đến mà chứng kiến
tôi tụng lần thứ một nghìn ấy….
Đến
đây, bữa cơm chay đã mãn. Khách mệt mỏi, xin ngả lưng. Nhà sư dọn dẹp trong am
cho thanh khiết, rồi bước tới trước bàn Phật, khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra mà
khởi sự tụng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện vào không gian. Thỉnh thoảng
một tiếng chuông ngân lên, đánh dấu chuỗi tiếng mõ dài đăng đẳng….
2.
Trước
khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đổi vài câu:
–Tội
nghiệp thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất sáng suốt, mà không giác ngộ. Phật
pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước, tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi
thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ ắt phải lo tài bồi, phát triển mối
đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ; rồi sanh ra môn ra phái. Ấy là
nguồn gốc của sự chi ly. Nay rừng thiền đã hơn tám mươi bốn ngàn cội khác nhau,
ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.
–Tôi
cũng đồng ý với anh về chỗ đó, và nghĩ thêm rằng: Nếu bây giờ có một vị Di Lặc
xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp cho kịp với mọi sự tiến
hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay. Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của
Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước cái Pháp mới sắp ra đời. Chớ mê mải trong
việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ lòng mong của Thích Ca chăng?
Lời
nói của hai người khách giữa cái am vắng vẻ, không dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe
trộm này là một con thằn lằn, đến ở am khi am vừa mới dựng lên, và đã từng nghe
999 lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng người, biết suy nghĩ và phán
đoán. Câu phê bình của hai người khách đã giúp cho con thằn lằn giác ngộ. Nó
vốn biết nguyện vọng của nhà sư: là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư
sẽ lên giàn hỏa mà tự thiêu…. Rồi nó nghĩ: nhà sư lòng còn mê tín, chưa được
giác, phỏng có thiêu thân, thì làm sao nhập được Niết Bàn? Hay là ta tìm thế
ngăn người, đừng để cho người thiêu thân, đợi chừng nào người được giác rồi sẽ
hay?
Rồi
con thằn lằn quyết định: Phải ngăn ngừa, đừng để nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn.
Nó nghĩ được một kế: Ấy là bò lên bàn Phật, đến dĩa đèn dầu, rán sức mà uống
cạn dĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không thấy chữ mà tụng nữa.
Một
sức mầu nhiệm đã giúp cho con thằn lằn đạt được ý nguyện: chỉ trong một hơi mà
dĩa dầu đã cạn: bộ kinh chỉ tụng được quá nửa mà thôi. Đèn tắt, nhà sư ngạc
nhiên, nhưng nghĩ: hai người khách là kẻ phàm tục, không được duyên lành chứng
giám việc đắc đạo của mình. Âu là xếp kinh, nghỉ, chờ ngày mai khách lên đường,
sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.
Nhưng,
sau đó đêm nào cũng vậy, buổi đọc kinh chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà sư có
lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ lại khi xưa đã có lời
nguyện tụng kinh vào lúc khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi.
Và
một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc chốc nhìn lên dĩa
dầu để xem sự thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống dầu. Nổi
giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, và mắng rằng:
–Loài
nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo!
Rồi
tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị
đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần kinh, bước lên dàn hỏa, tự
châm lửa mà thiêu mình.
3.
Và
cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm,
ngài gọi nhà sư mà dạy:
–Nhà
ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vỡ lòng của pháp ta là
thế nào! Pháp ta đã dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc đạo, mà ngươi dục
vọng lại quá nhiều: bởi việc muốn đắc đạo, để được thành Phật kia cũng là một
cái dục vọng. Có dục vọng ấy là Tham ; bởi tham nên giận mắng con thằn lằn, ấy
là Sân; bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ tụng kinh, rồi
đắc đạo, ấy là Si. Có đủ Tham Sân Si tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn
chay trường trọn đời, cũng chưa bù được.
Tội
ngươi lớn lắm, phải rán tu luyện thât nhiều mới mong chuộc được. Vậy ta truyền
cho Kim Cang, La Hán hốt cho hết đống tro do xác ngươi thiêu mà hóa ra, rồi đem
tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi một hột tro đó sẽ biến sanh thành một người.
Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám chúng sanh ấy sẽ được quy nguyên, trở hiệp
lại thành một, thì nhà ngươi sẽ đến đây mà thành chánh quả.
Rồi
Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:
–Nhà
sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng giá là một mà thôi. Còn nhà ngươi,
được giác một phần rồi, mà làm tội, thì tội đáng kể là mười.
Con
thằn lằn lạy mà thưa rằng:
–Bạch
Phật tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu nát thân cũng không tiếc.
Chẳng hay đệ tử có tội chi?
Phật
phán:
–Muốn
độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn đón việc tụng kinh của người? Đã
đành rằng việc tụng làm của nhà sư là một việc mê tín, nhưng dầu là mê tín,
song vẫn là một tín ngưỡng. Cõi Phật vốn là cõi tự tại. Nếu phạm đến tự do tín
ngưỡng, gọi là để dắt người vào, thì làm sao cho được. Bởi ngươi không dùng
phương pháp tự do, người là kẻ mất tự do, thì cả hai làm sao được vào cõi tự
tại?
Một
lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà xin tội:
–Xin
Phật tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa, để dùng phương pháp tự
do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị Kim Cang, La Hán vừa tung
ra đó.
Phật
đáp:
–Ta
cho ngươi được toại nguyện.
Hồn
con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng:
–Xin
Phật tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi?
Phật
đáp:
–Nhà
ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà hóa sanh. Tự do chọn lựa
mới có thể luyện mình để bước vào cõi tự tại.
4
Hồn
con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu, để có thể vừa
dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông người, số người
đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật chưa hề có lúc nào có một
linh hồn bị trừng phạt phải đau khổ đến thế…..
Một
hôm trong hồi xiêu bạt, hồn con thằn lằn thấy bóng của một trong hai người
khách đã đến am thuở nọ, mà câu chuyện nghe lóm đã làm duyên cho mình mấy năm
đau khổ.
Thằn
lằn vội vã bay theo vái chào và kể nỗi niềm đau đớn:
–Ngài
đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu tôi phải mang cái nghiệp vô
định này. Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.
Hai
ông khách đáp:
–Chúng
tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống chi lại dám đèo bồng mang lại
một giải pháp cho một vấn đề nan giải. Nhưng đã lỡ gieo trong trí ngươi một ý
nghĩ làm cho ngươi phải khổ như bây giờ, thì phải góp ý kiến để cho ngươi suy
xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc lỗi.
Hồn
con thằn lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một người khách nói:
–Chúng
tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc đem ý hay lời đẹp mà
làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người làm sự sung sướng của
mình, cho đó là sự “đắc đạo” của mình. Nếu phải mong muốn điều gì, thì cố gắng
trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thì tốt, bằng không thì thôi, chớ chẳng
hề khi nào phạm đến tự do của người….
Nghe
đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người
khách thứ hai nói tiếp:
–Xưa
nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể một chuyện lý thú,
hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ này được truyền ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu
ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng trau dồi văn tài
cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hoá triệu triệu người….Rồi,
cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi
người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào,
làm cho ngọn lửa sáng lên….
Hồn
con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói rằng:
–Con
đường ấy khó đi cho đến hết được, song chắc chắn là đi cùng đường, ắt có thể
đến trước tòa sen mà chầu Phật tổ. Vậy tôi xin cố gắng.
Hồ Hữu Tường
(Trích:”Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta“, của
nhà xuất bản Sóng, Saigon, 1974)
Từ trang QGHCUC
No comments:
Post a Comment