Sách có linh hồn không?
Nhà văn Bùi Bích Hà
(1938-2021)
Sinh trưởng ở thành phố Huế
cổ kính, những thập niên đầu và giữa thế kỷ 20, chúng tôi chịu một nền giáo dục
hết sức nghiêm khắc của gia đình. Cha mẹ và cả các anh chị, kiểm soát con em
rất chặt chẽ về cả hai phương diện hành vi và tư tưởng.
Người lớn rất sợ chúng tôi
tiêm nhiễm những điều chất chứa trong nội dung các cuốn sách, nặng nhất là sách
truyện hay tiểu thuyết. Bàn học của chúng tôi không có sách nào khác ngoài tập
vở liên quan đến chương trình học ở nhà trường.
Vài bạn may mắn được gia
đình chăm sóc kỹ thì có mấy cuốn sách hồng mỏng tang nêu cao gương đạo đức cho
tuổi thiếu niên. Phần tôi, người vô tình gợi ý cho tôi tò mò muốn đọc sách từ
tuổi lên bảy là chị cả của tôi.
Bố mẹ tôi vì công việc,
thường vắng nhà. Khác với tôi bị một chị và một anh trên mình canh gác và trừng
phạt thay bố mẹ, chị không bị ai giám sát cả nên chị tự do đọc bất cứ sách gì
chị muốn.
Tôi còn nhớ như in cảnh
những buổi trưa mùa hè gió hây hây mát, chị ngồi dựa lưng trên cái ghế xích đu
đặt ở mé hiên thấp thoáng nắng từ cái giàn thiên lý lá xanh như ngọc, quyển
sách úp hờ hững trên ngực, hai mắt chị lim dim, khuôn mặt chị đằm đằm nét dịu
dàng thỏa thuê của một bông hoa hé cánh.
Chị ngưng đọc từng lúc như
thế khiến tôi thầm đoán chắc chị đang ôn lại những gì chị vừa thấy mô tả qua
mấy trang sách chị cầm trên tay. Điều này kích thích trí tưởng tượng non nớt
của tôi, khiến tôi liều giấu một cuốn của chị trên cái hộp nước trong bồn cầu
để tôi có chỗ đọc nó.
Dần dần, bằng cách này, tôi
đọc được nhiều sách lắm, của Dương thị Hạnh, Hoàng Ngọc Phách, Lê văn Trương,
Phạm Cao Củng…, nhiều nhất là của Tự Lực Văn Đoàn. Có những cuốn đối thoại giữa
các nhân vật rất hay và tôi bắt chước họ bằng cách một mình lần lượt đóng mấy
vai, một mình đối đáp qua lại, làm đủ cử chỉ như sách mô tả đằng sau cánh cửa
phòng vệ sinh tôi đã chốt kỹ. Sau này lớn lên, ăn nói trôi chảy, khẩu khiếu của
tôi chắc từ đây mà ra.
Năm tháng trôi qua, như các
bạn bè cùng trang lứa, thời mới lớn, tôi cũng có nhiều anh ngấm nghé. Có một
anh du học bên Pháp về, cứ mỗi lần đến thăm tôi, anh đều cho sách, những cuốn
anh chọn mua ở nhà sách Albert Portail (sau này là Xuân Thu) trên đường
Catinat, Saigon.
Nhờ anh, tôi đọc hết những
cuốn của Françoise Sagan và rải rác trong chương trình học bên Văn Khoa, vài
cuốn của Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Somerset Maugham, André Gide (tôi bỏ
nửa chừng) Alain Robbe-Grillet (tôi không mấy thích).
Riêng trong số sách anh
cho, có một cuốn không thuộc loại văn học nên tôi đặc biệt lưu ý, cuốn Sur Les
Hauts Plateaux du Vietnam, viết về đời sống của các bộ lạc thiểu số vùng cao.
Thấy anh qua lại đã lâu mà
tôi thì lửng lơ, mẹ tôi khuyến khích: “Này con, mẹ thấy cậu Thụy được đấy. Trai
gái quen nhau mà cậu ấy chỉ cho con sách. Người quý sách tính tình nho nhã,
thanh lịch và sâu sắc con ạ!”
Tôi ngạc nhiên nghe nhận
xét của mẹ trong cách đánh giá một con người. Nhất là bà xuất thân từ một làng
quê nghèo Bắc Ninh, bản thân mù chữ, trưởng thành với công việc đồng áng lam lũ
cho đến khi bước vào ngôi nhà bề thế của bố tôi để sinh con cho ông.
Mãi sau này, nghĩ lại, tôi
mới nghiệm ra niềm an ủi nuôi sống mẹ tôi qua suốt cuộc đời nhọc nhằn, cơ cực
của bà là mấy cuốn Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc mà tôi thực
sự không biết nhờ đâu bà thuộc lòng không sót một câu!
Đến đời tôi, đứa con không
ai chờ đợi trong gia đình vì trên tôi đã có một chị xinh đẹp và một anh khôi
ngô, tuấn tú. Từ khi lọt lòng, tôi hẩm hút trong tay người đàn bà sinh ra tôi
mà tôi chỉ được gọi là chị, loanh quanh với “người chị” từ tinh mơ đến quá nửa
đêm, ngày nào như ngày nấy, phải làm trăm công ngàn việc, nhiều lắm chỉ cho tôi
thỉnh thoảng ngửi hơi áo đầy mùi mắm muối của chị, không có thì giờ bế ẵm,
chuyện trò với tôi, bỏ mặc tôi trong cái xe đẩy bằng mây, lọc cọc bốn cái bánh
gỗ trong gian bếp ám khói là nơi chị phải đánh vật suốt ngày với mấy ông đầu
râu để lo cơm nước cho mấy chục nhân khẩu.
Biết đi rồi, tôi vẫn một
mình lủi thủi chơi với mấy con côn trùng vô hại, với cái chày giã cua quấn cái
tã cũ giả bộ làm búp bê, với cái bánh xe lăn vòng quanh cái sân gạch và tôi
luôn miệng mời chào, “Chị ơi, chị đi xe của em lên chợ Đông Ba không?”
Lớn hơn tí nữa, tôi lăn lóc
từ sáng đến chiều tối với con cái những người thợ thuyền và công nhân trong
nhà, chơi đủ thứ trò chơi lảm nhảm của đám con nít không có ai giáo dục như
tôi.
Phước đức tổ tiên để lại,
nhờ chị cả, tôi bước vào thế giới sách và học được bao nhiêu điều kỳ diệu qua
ngôn ngữ và cách ứng xử của các nhân vật tác giả vẽ ra trong những cuốn sách
ấy. Cũng cắp sách đi học như nhiều trẻ con khác nhưng vì có tình yêu chữ nghĩa,
tôi với biển học như cá gặp nước, cha mẹ không cần roi vọt đe nẹt, thúc bách.
Hơn ai hết, tôi sớm biết
sách là chìa khóa mở cửa một thế giới huy hoàng, của ánh sáng, của tâm hồn, của
trí tuệ, của trái tim và của trí khôn nhân loại.
Mấy tháng nay, tôi có chị
bạn đang loay hoay tìm hiểu, thu góp mọi tài tiệu liên quan đến những vụ đốt
sách xảy ra ở Sài Gòn những ngày đầu tiên sau biến cố 30 tháng tư 1975…
Chị nói với tôi: “Tội đốt
sách cũng ngang với tội diệt chủng. Lịch sử kết tội những lò hơi ngạt của
Hitler, sao không ai kết tội kẻ đốt sách?” Bạn tôi không quá lời nếu chúng ta
hình dung được mỗi con chữ, mỗi cuốn sách cũng có linh hồn.
Trận đốt sách đầu tiên tôi
chứng kiến diễn ra tại lề đường trước mặt rạp chiếu bóng Cao Đồng Hưng, gần chợ
Bà Chiểu, Gia Định. Tôi không biết có bao nhiêu cuốn sách và những loại nào
được gom thành đống có ngọn, cao chừng hơn một thước, đáy tòe ra chừng thước
rưỡi.
Nam nữ đoàn viên đội băng
đỏ xúm quanh, hăng hái diễn thuyết về nền văn hóa Mỹ Ngụy đồi trụy cần phải
được đốt sạch. Họ kêu gọi dân chúng: Tự giác đem nộp sách cho ủy ban quân quản
xử lý hay là chờ nhà cửa bị lục soát, sách bị tịch thâu và người mang tội với
giải phóng và nhân dân?
Hiệu triệu xong, họ cùng
nhau hò hét inh ỏi rồi châm lửa vào nấm mộ sách. Ngọn lửa nhanh chóng bốc lên
ngùn ngụt, khói bay khét lẹt. Tôi hơi lạ, nghĩ sao sách mới in ra thơm mùi
giấy, mùi mực là thế mà khi bị đốt, sách không thơm nữa? Mỗi tờ, mỗi trang là thịt
da của sách chăng?
Sau màn đốt sách này, tôi
chờ đợi phải chứng kiến thêm nhiều lần nữa nhưng không! Có ai đó thông suốt về
kinh tế tầm nhỏ, đã mách nước chính quyền giải phóng đừng dại dột đem sách ra
đốt vì tiền đấy! Đem bán ve chai hay giấy lộn sẽ thu được khối tiền. Thế là lề
đường đầy người trải những tấm bạt bày bán sách cân theo kí lô và bạn hàng chạp
phô các chợ xé sách soàn soạt để lấy giấy gói các vật phẩm bán lẻ cho người
mua.
Không đốt sách nhưng sách
vẫn là một hiểm họa đáng sợ cho những kẻ không có khả năng đọc sách, hiểu sách
để làm chủ sách. Sách vẫn muôn đời là ngọn đuốc soi đường, là vũ khí tranh đấu
hiệu quả trong nỗ lực xây dựng tự do, dân chủ, nhân quyền và hạnh phúc cho con
người chống lại bóng tối của ngu muội và của sự ác.
Không triệt được sách,
không bỏ tù được sách thì triệt người viết sách, bỏ tù tác giả. Sau cuộc chiến
đốt sách sớm tàn lụi là cuộc chiến truy đuổi và bách hại các văn nghệ sĩ, nhà
báo, học giả, trí thức kẹt lại trong nước.
Viết đến đây, tôi sực nhớ
mẹ tôi xuất thân mù chữ. Rõ ràng bà không có khả năng đọc, hiểu và làm chủ sách
nhưng sao mẹ tôi không hằn thù, không sợ hãi sách mà trái lại, bà quý sách và
ca tụng những người quý sách?
Sự khác biệt giữa mẹ tôi và
các đội viên mang băng đỏ ở tay áo ngày 30 tháng tư 1975, cả những kẻ ra lệnh
cho họ đốt sách, là gì? Phải chăng là trái tim của yêu thương con người, của
thiện ý muốn thấy cuộc đời này tươi đẹp hơn, tiến bộ hơn, sáng sủa hơn? Phải
chăng là niềm tin vào khối óc con người cần được nuôi dưỡng và phát triển thay vì
triệt hạ nó?
Thi sĩ Phùng Quán hạ bút
viết những câu thơ để đời: “Có những phút ngã lòng, tôi vịn câu thơ mà đứng
dậy.” Mẹ tôi là nhân chứng cho thơ của ông khi bà sống được như một người tử tế
và đi trọn cuộc hành trình khốn khó của bà trên mặt đất này cũng chỉ nhờ những
câu thơ trong Kiều, Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc, để bà vịn đứng lên và
không qụy ngã. Chữ nghĩa là tường thành, là đá tảng, là gậy thép, là sức mạnh
sinh tồn vượt qua mọi thử thách và đe dọa. Sợ là phải.
Mới đây, nhân chuyện con
nhện giăng tơ ở vườn sau nhà tôi, chúng tôi nhớ lại bài thơ cổ đăng trong Quốc
Văn Giáo Khoa Thư, người Việt Nam nào ra đời trong thế kỷ 20 đều thuộc:
“Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai?...
Điều bất ngờ vô cùng lý thú
là một anh trong nhóm chúng tôi đang có nguyên vẹn cuốn sách này trong tay,
khiến tôi ngẩn ngơ rồi kinh ngạc, tự hỏi làm sao mà một cuốn sách mỏng có thể
trôi nổi gần một thế kỷ, qua biết bao tai ương, sóng gió để vẫn đường hoàng tồn
tại trong tủ sách của một người suốt đời yêu sách như thế?
Tôi nhất định tin rằng
không chỉ xương da mà sách còn có linh hồn và linh hồn ấy bất tử…
Bùi Bích Hà
Người
chuyển bài – PPH - AUST
No comments:
Post a Comment