KÝ ỨC MỘT THỜI
PHẦN II: TÔI ĐI TÙ (CẢI TẠO)
NẾU không có ngày 30/4 đen tối thì
cuộc đời tôi và nhân dân Miền Nam VN sẽ tươi sáng hơn nhiều. Ở thời điểm đó, mặc
dù có chiến tranh nhưng miền Nam vẫn phát triễn mạnh mẽ về mọi mặt: kinh tế ,
xã hội, văn hóa, giáo dục…Nếu miền Nam không bị sụp đổ và nếu Giáo sư Nguyễn
Văn Bông không bị ám sát thì các nhân tài xuất thân từ Quốc Gia Hành Chánh sẽ
kiện toàn cơ cấu tổ chức chánh quyền, tạo nên nền tảng vững chắc xây dựng đất
nước. Ngoài ra các trường đại học miễn
phí được mở thêm, thu hút nhân tài, nâng cao trình độ dân trí, ý thức bảo vệ tổ
quốc. Giáo sư Vũ Quốc Thúc có kế hoạch
xây dựng và phát triễn đất nước thời hậu chiến, sẵn sàng đem ra áp dụng khi hết
chiến tranh. Về quốc phòng, chánh phủ mở rộng, nâng cao kỹ thuật tác chiến quân
sự, mở trường Võ Bị Đà Lạt hệ 4 năm, áp dụng vào chương trình học mới, tiếp thu
những tinh hoa của các nước tư bản về quân sự, đào tạo quân nhân thành những
người tài giỏi phục vụ đất nước. Thêm vào đó là những yếu tố tích cực khác thì
làm sao bên kia thắng được? Trong khi miền
Nam đang phát triễn thì miền Bắc tàn lụi
mọi mặt. Kinh tế lụng bại, Nhà nước
phải phát động thi đua sản xuất, làm việc gấp đôi gấp ba, ban hành kế hoạch phát triễn 5 năm, 10 năm nhằm trấn an dân
chúng. Họ sống lây lất bằng viện trợ lương thực và vũ khí từ các nước XHCN. Nguồn
nhân lực bị cạn kiệt, các giáo sư từ đại học xuống trung học, các học sinh,
sinh viên đều phải đi lính phục vụ chiến trường miền Nam. Trường học nhiều nơi
bị đóng của, chương trình trung học rút xuống còn 5 năm thay vì 7 năm như ở Miền
Nam. Sau những trận đánh khốc liệt của Tết Mậu Thân ( tháng 1/1968), Khe Sanh (
tháng 1/ 1968), Mùa Hè Đỏ Lửa Quảng Trị ( tháng 4/1972), miền Bắc bị thiệt hại
nặng nề về nhân mạng, nhiều làng xã báo cáo đã hết thanh niên! Thanh niên ra đi
phục vụ chiến trường miền Nam, làm mồi cho bom đạn Mỹ từ B52 rãi xuống dọc đường
mòn HCM, và những chiến trường lớn đẫm máu như
Khe Sanh, Charlie, Làng Vây, Đường 9 Nam Lào... Hình ảnh cho thấy trong
trận Mậu Thân 1968, một số bộ đội tuổi
14,15 vác súng AK cao khỏi đầu , đi ruồng trong Thành Nội Huế lúc họ chiếm đóng
trong 25 ngày . Nhưng có ai ngờ đất nước lại có ngày 30/4, đánh dấu một chấm hết cho
chế độ tự do miền Nam . Tôi và các quân dân cán chính chế độ cũ phải khăn gói
đi tù .
Tôi trình diện tại trường Chu Văn An SG, tháng 6/1975 theo lệnh của Ủy
Ban Quân Quản thành phố HCM, sau đó chuyển lên Trãng Lớn TN, rồi “biên chế” về
Long Khánh, sau cùng là Phước Long . Trại cải tạo Long Giao (tỉnh Long Khánh)
là một khu vực rất rộng chia làm 3 khu mỗi khu chứa khoảng 500 tù cải tạo. Tính
từ ngoài vào trong tới khe suối, thì tôi thuộc khu 1, nghe nói đây là căn cứ
pháo binh của sư đoàn 18 Bộ binh trước
kia. Mỗi khu lại chia thành tổ, khu của tôi gồm 7 tổ, tôi nằm ở tổ 2. Những buổi
tối không có sinh hoạt phê bình kiểm điểm,
tôi thường đến tổ 7 nghe một anh kỹ sư điện Biên Hòa kể chuyện kiếm hiệp Anh Hùng Xạ Điêu, Tam Quốc Chí v.v Trong dịp
nầy tôi làm quen với 2 anh bạn giáo chức là Nguyễn Văn Chiển và Trần Văn Khiêm.
Anh Khiêm dạy Toán cấp 3 tại Trung Học Nhà Bè còn anh Chiển là giáo sư dạy tại
Đại học Sư Phạm ban Toán, Sài Gòn. Khoảng tháng 6 năm 1976, sau khi cơm chiều
xong, bỗng tiếng còi báo động vang lên, vệ binh mang súng ống chạy rầm rập xuống
các tổ, ra lịnh cho anh em cải tạo dọn dẹp hết đồ đạc cá nhân, mang ra sắp hàng
trước nhà, sau đó nghe đọc tên, ai có tên thì sắp hàng riêng một bên. Công việc hoàn tất, vệ binh ra lịnh dẫn toán thanh lọc
ra xe Molotova đang đậu sẵn trước trại, chuẩn bị di chuyển đến chỗ mới, rộng
rãi hơn, tiện lợi cho lao động sản xuất, một vệ binh cho biết như thế. Đoàn xe
5 chiếc mỗi chiếc chở 20 người với đồ đạc lỉnh kỉnh, ngoài tài xế còn 2 vệ binh
súng ống lăm le như muốn nhả đạn, một tên
ngồi cabin phía trước một tên phía sau. Xe được phủ một tấm bạt màu cứt
ngựa thật kín mít. Độ 10 phút sau tên chỉ huy ra lệnh khởi hành, tất cả chúng
tôi đều im lặng, có người nói nhỏ vừa đủ nghe: Không biết chúng có chở mình đi
thủ tiêu như hồi Mậu Thân ở Huế không ?
Xe chạy thật lâu mà không thấy tới, không ai biết tới đâu vì xe bịt kín
không còn kẻ hở để nhìn ra ngoài . Giờ nầy hình như có sương xuống nên nghe lạnh ngắt mà áo mặc thì mỏng
manh. Cho đến khi xe chạy chậm lại, có
tiếng cành cây quẹt rào rào quanh xe, chúng tôi mới tĩnh ngủ, xe đổ cạnh một
con suối bên nầy cây cầu sắt, thì ra đây là tỉnh Phước Long! Đồng hồ chỉ 3 giờ
sáng, mọi người xuống xe, lóp ngóp tìm chỗ nằm ngủ tiếp. Tôi nằm cạnh gốc cây
khô, co rút đầu, tấm khăn trải làm mền không đủ che ấm, sương xuống nhiều giăng
phủ cả khu rừng âm u, lạnh buốt trong da lẫn trong xương. Tôi chập chờn trong
giấc ngủ nửa tỉnh nửa mê, rồi giật mình ngồi dậy, nghe ngứa ngáy trong
thân, kéo áo lên, vài con vắt no tròn rớt
ra , tôi lạnh người cởi hết áo quần ra giũ, thân nhuộm đầy máu do vắt cắn, đâu
ngờ cạnh suối lại có nhiều vắt đĩa như thế ! Sáng ra, thân thể rã rời nhưng quản
giáo tập họp lại phân công từng nhóm đi chặt nứa, lấy cỏ tranh, hái lá trung
quân, chặt gỗ trong rừng đem về làm nhà cho những người mới tới . Xong nơi ăn chốn ở, chúng tôi bắt đầu lao động
sản xuất, cuốc đất trồng khoai mì, trồng lúa, đốt rừng làm rẫy . Khi nào có
rãnh tôi năn nỉ anh Chiển chỉ cho học Toán để quên nỗi thất vọng, sự buồn rầu
khi thấy ngày về còn xa thăm thẳm, bù lại tôi nấu nước uống cho anh mỗi chiều tối
. Cũng cần nói thêm để bạn đọc rõ: do cơ
duyên nào đó mà khi “biên chế” lên Phước Long, bộ ba: tôi, anh Khiêm và giáo sư
Chiển lại ở chung một tổ một phòng cạnh nhau và chúng tôi trở nên thân thương
như anh em một nhà, nương tựa gíup đỡ nhau trong hoàn cảnh khó khăn nghiệt ngã.
Tôi lớn tuổi nhất gọi 2 người kia bằng mầy xưng tao rất thân mật. Tôi hỏi: Ê
Chiển, mầy để lon guigoz ở đâu mà tao không thấy ? Chiển trả lời: Tui để trên kệ
đó anh Cang ! ( tới đây tôi xin mở dấu ngoặc để nói thêm về Gs. Chiển, anh thuộc
gia đình người Bắc di cư vào Nam năm 1954, học rất giỏi Toán, là học trò của
giáo sư Đặng Đình Áng, đậu cao học Toán, làm giáo sư rất trẻ, anh viết quyển
Toán Giải Tích dùng cho năm thứ nhất, hai,ba, ban Toán tại Đại học Sư Phạm SG
lúc 25 tuổi. Sách dày 325 trang chữ in nhỏ xíu, nếu in chữ size 12 thì chắc
cũng gần 900 trang. Sách rất có giá trị cho sinh viên học Toán thời bấy giờ vì
hồi đó chưa có ai in sách Toán đầy đủ như thầy Chiển, ngay cả giáo sư tiến sĩ Đặng
Đình Áng ( người bảo trợ anh thi đậu cao học Toán) cũng mới chuẩn bị in sách
Toán cho sinh viên. Chiển cho biết đang chuẩn bị trình luận án tiến sĩ Toán thì
bị sập tiệm! Tài liệu Toán học cao cấp anh mua sách tham khảo từ bên Pháp, Mỹ
và hội Toán học quốc tế gởi tới. Tôi gặp anh ở trại cải tạo Long Khánh lúc anh
26 tuổi, còn tôi lớn hơn anh 7 tuổi . Thầy Chiển bằng lòng nhận tôi làm đệ tử,
tôi ra mắt Thầy bằng lễ vật gồm 1 con khô cá sặc và một tán đường thẻ ! Thầy dạy
tôi mỗi ngày 5 tới 10 phút, chương trình toán đại học. Tôi đưa cho Thầy cuốn tập để Thầy viết và vẽ
hình, Thầy giảng về số nguyên thiên nhiên, tập hợp hợp hữu hạn, vô hạn, tập hợp
đếm được , không đếm được, số thực, các phép tính trên số thực v.v. Việc học
kéo dài được 1 tháng thì Thầy bảo ngưng vì quá mệt mỏi mà thực tế đâu phải ngày
nào cũng dạy có khi nghỉ cả tuần hoặc 2 tuần mới học 1 bài . Thầy bảo kỳ thăm
nuôi tới sẽ nhắn vợ đem tặng tôi quyển sách Toán Giải Tích để tôi đọc, chỗ nào không hiểu thì Thầy giải
thích . Sau đó độ 1 tháng có thăm nuôi Thầy tặng tôi quyển sách đó, tôi mừng lắm.
Tôi bắt đầu đọc chương I, thấy còn dễ hiểu, sang chương II và III thì khó quá,
tôi hỏi Chiển, anh trả lời rành mạch từ định nghĩa, tính chất cho tới định lý,
vanh vách không ngập ngừng. Tôi kinh ngạc: sách gần 900 trang chứa cả trăm định
lý mà làm sao anh nhớ cho hết từ định nghĩa cho tới chứng minh? Đó là chưa kể
những bài tập hóc búa. Vậy mà anh hiểu và thuộc lào lào! Được một thời gian ngắn thì thầy trò đều bỏ
cuộc vì lao động qúa mệt mỏi không còn sức để thầy dạy và để trò học nữa.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, mới đó mà gần một năm lao động vất vả. Ba anh
em chúng tôi ốm thấy rõ, mặt mày hốc hác, áo quần te tua. Ngày nào cũng vậy: một chén cơm lưng buổi
sáng, một chén cơm lưng buổi chiều thêm một bát canh rau muống lỏng bỏng nước.
Cơ thể lúc nào cũng nghe đói, mới vừa ăn xong một chén cơm mà bụng cảm thấy trống
rỗng, đói từ sáng tới tối, đêm khuya bụng cồn cào không ngủ được. Cái đói nó
hành hạ cơ thể khủng khiếp biết chừng nào! Lao động nặng nhọc, cơ thể gầy còm
đi đứng không vững, áo quần tơi tả vì thiếu tiếp tế. Chỉ vài tháng sau khi nhập
trại, toàn thể sĩ quan trở nên rách rưới, ốm đói, phờ phạc, hãi hùng. Có người
quá tuyệt vọng đã tự tử chết (ở Trảng Lớn Tây Ninh) .
Bản năng sinh tồn con người
rất mạnh, trước bế tắc, chúng tôi tự tìm cách cứu mình. Khi đi ra ngoài lao động,
hễ gặp con vật gì ăn được là chộp lấy ngay,
nhét vội vào túi áo, túi quần, chiều về nấu nướng linh tinh: dế cơm, cào cào, nhái bén, chim, chuột, cắc
ké, thằng lằng v.v. Rau cỏ thì có: cải
trời, lục bình, măng tre, nứa… Có một lần cả đội đi thu hoạch củ mì, tôi tranh thủ ngắt một nắm đọt mì non
đem về nấu cháo với nửa chén cơm lưng . Đang lúc đói bụng tôi ăn ngon lành một
lon guigoz cháo lõng bõng, vừa lên giường nằm ngủ thì nghe đau bụng dữ dội, cơ
thể giật giật mấy cái rồi mê mang bất tỉnh. Cho tới sáng hôm sau tôi giật mình
tỉnh dậy, miệng đắng, mắt hoa , đầu nặng trịch. Nắng gay gắt hất lên mái nhà, ngơ ngác tưởng
mình đang thức dậy từ chiếc giường nơi quê nhà. Thần chết bỏ đi, tôi dụi mắt nhận
ra mình đang trong trại cải tạo, lòng buồn se thắt, nhìn quanh thấy vắng hoe,
thì ra anh em đi lao động cả rồi, tôi lết ra ngoài cửa ói linh láng. Chợt nhớ
trong túi đựng đồ có mấy viên Tifomycine tôi đem theo lúc mới trình điện nhập
trại, tôi lấy ra uống liền 2 viên, thế là tôi thoát chết. Hú hồn !
Trước nguy cơ cải tạo bị chết vì bệnh hoạn, thiếu ăn, kiệt sức ; đảng và
nhà nước cho phép thân nhân gởi quà và
thăm nuôi, anh em thấy khá hơn, nhưng không phải ai cũng may mắn, có người bị
vợ bỏ hoặc không tiền mua đổ tiếp tế thì vẫn đói meo . Một hôm chúng tôi được lệnh cả tổ đi qua cây cầu
sắt Đắc Luông rồi tiến vào khu rừng rậm phía bên trái để chặt cây cất nhà tiếp.
Mặt trời chưa lên khỏi ngọn cây, sương mù còn giăng kín cả một cánh rừng mênh
mông, những ngọn đồi chập chùng, xa xa ngọn núi Bà Rá ẩn hiện trong sương khói
mịt mù. Thêm vào đó là cái lạnh cắt da của núi rừng cao nguyên khiến lòng tôi
chùng xuống, thương thân tù tội, mất tự do, lại nghĩ tới vợ con bây giờ không
biết ra sao , nên chân bước đi thấy nặng
nề.
Vệ binh căn dặn đúng 3 giờ chiều
phải trở ra đầy đủ ở chỗ nầy. Tổ trưởng phân công cứ 2 người chặt một cây rồi
khiêng về nhưng phải chia nhiều hướng cho dễ tìm cây lớn. Tôi và Chiển cầm dao
hướng về trước mặt, đi một đổi chúng tôi hạ được một cây khá lớn, anh em kề vai khiêng ra, nhưng hỡi ôi vì mãi lo
làm việc mà chúng tôi không để ý chung quanh, bây giờ nhìn lại không thấy một
bóng người. Tất cả đều im lặng cái im lặng chết người. Tôi hối Chiển tiến nhanh
về phía trước rồi hất thân cây ra khỏi vai cho nhẹ bước, cây rừng chằng chịt
làm vướng chân, té lên té xuống, mồ hôi đổ ra như tắm mặc dầu trời lạnh căm căm
. Càng đi, không gian càng trở nên đen tối,
không còn thấy một chút ánh sáng mặt trời.
Bất chợt Chiển la lên: Phía bên trái có khoảng trống ánh sáng kìa !
Chúng tôi mừng rỡ, chạy nhanh về hướng đó , độ 15 phút sau, thì ra khỏi khu rừng
già. Một lần nữa tôi thất vọng, vì không
biết nơi đây là đâu, chúng tôi hoàn toàn mất phương hứơng, mất lối về, tôi kinh
hoàng sợ hãi cực độ, nếu không về được thì can tội trốn trại có thể bị xử bắn
hoặc bị đánh mềm xương , đó là quy luật của trại ! Chạy tới chạy lui một hồi
thì gặp nhà người Thượng, thấy một anh thượng đang đứng trước cửa tôi liền tiến
tới hỏi thăm đưởng. Không ngờ vừa thấy chúng tôi anh liền bỏ chạy, tôi thất vọng,
mới nhận ra anh ta đâu biết nói tiếng Việt. Mà dẫu có biết anh ta cũng không
dám giúp đỡ vì sợ bị liên lụy. Tôi nhìn đồng hồ, 5 giờ chiều ! như vậy chúng
tôi đã lố hẹn quá xa! Màn đêm xuống thật
nhanh, mới có 5 giờ chiều mà bóng tối vây quanh chập chờn, tôi lóe ra một ý
nghĩ rồi nói với Chiển: Sáng giờ mình cứ hướng về phía bắc, tại sao ta không
quay lại hướng nam, ngược chiều, ắt tới nhà?
Nói xong tôi cắm đầu chạy, Chiển cũng chạy theo. Lúc nầy đường trống nên
dễ chạy tuy vậy cũng vấp té mấy lần. Tôi hoảng lọan tinh thần, chạy mà không chắc
tìm được lối về, trước mắt chập chờn những bóng ma đang nhảy múa ! Được khoảng
một tiếng đồng hồ thì xa xa hiện ra con đường đất lớn, tới gần tôi mới nhận ra
đây là con đường quen thuộc mà chúng tôi thường đi lao động cuốc đất trồng mì tại
một địa điểm thuộc xã Đức Hạnh cách trại chừng 7 cây số. Chúng tôi mửng rỡ lấy
sức chạy tiếp đoạn đường cuối cùng nầy. Được một giờ thì về tới trại, nhìn đồng
hồ, đúng 7 giờ tối ! Sửa lại quần áo cho chỉnh tề, lúc nầy mới thấy mình không
giống ai, áo quần rách tơi tả do vương cây , gai rừng. Chúng tôi đứng trước nhà
của khung cán bộ, tôi la lớn : Xin trình diện cán bộ chúng tôi vừa mới về tới.
Bên trong vài ba người lính đi tới đi lui, trên bàn còn chén dĩa bày ra, họ vừa
ăn cơm xong.
Một tên tiến ra hỏi: Các anh tên gì? Đội mấy ?Trả lời: Nguyễn Văn Chiển,
Nguyễn Văn Cang, đội 2. Các anh định trốn trại phải hôn? – Thưa cán bộ không phải
ạ! Chúng tôi bị lạc trong rừng không tìm được lối ra. Hỏi: Anh kia, trước 75
anh ở đơn vị nào của ngụy, đóng quân ở đâu? Chiển trả lời: Thưa cán bộ tôi đi
lính ra trường được biệt phái về Bộ Quốc Gia Giáo dục, dạy tại Đại học sư phạm
SG, không có đóng quân tại đâu hết ! Còn tôi trả lời: Tôi ra đơn vị về đóng
quân tại Mỹ Tho thuộc miền Tây. (Nếu tôi hoặc Chiển có đóng quân tại Phước Long
thì sẽ thông thạo đường xá vùng nầy, hắn
có lý do kết tội chúng tôi muốn trốn trại ).
Hắn trở vô lục lọi gì đó một hồi lâu, tôi nghĩ hắn tìm lý lịch trích
ngang của chúng tôi xem có khai gian chỗ nào hôn? Một tên khác , như là xếp, đi ra nói với tên kia:
Thôi, cho 2 thằng ngụy nầy về trại đi!
Nghe thế tôi mừng húm, chào cán bộ rồi lui ra. Nhưng ô kìa, sao tên vệ binh lại
cầm AK đi theo chúng tôi ra tới ngoài đường ? Thình lình hắn vượt lên
trên, chận đầu rồi nói một câu xanh dờn
đầy thù hận và ấm ức khi phải chấp hành lệnh cấp trên: Hồi chiều nầy nếu các
anh ra tới cầu sắt sau 3 giờ thì tôi sẽ giết các anh ngay tại chỗ, tôi ngồi hơn
1 tiếng đồng hồ đợi 2 anh ở đó! Tôi nghe mà lạnh xương sống, biết hắn nói thật
vì trước kia có một anh cải tạo bị vệ binh bắn chết tại cây cầu sắt nầy! Nói
xong hắn quay gót trở lại khung. Tôi bị ám ảnh cả tháng trời không ngủ được vì
sợ ban đêm có tiếng gọi tên mình lên khung, xử tử! Cho tới bây giờ tôi cũng
không hiểu nổi tại sao họ lại tha chết cho chúng tôi dễ dàng như vậy, cũng
không tra tấn nhục hình ? Chỉ có câu trả lời : “nhờ Trời cứu” mới giải thích được.
Tôi được tha sau hơn 3 năm, Khiêm về sau tôi 3 tháng còn Chiển về sau tôi
6 tháng. Được tin Chiển về tôi có đến
trường Đại học sư phạm tìm thăm, gặp Chiển chúng tôi mừng vô hạn. Chiển cho biết
vừa trình diện nhiệm sở cũ ngày hôm trước thì ngày hôm sau Ban giám hiệu yêu cầu
anh lên lớp dạy ngay. Lúc nầy nhằm giờ chơi tôi thấy trên bàn anh có quyển sách
Toán Giải Tích mà anh đã tặng tôi khi trước, trên bàn sinh viên ngồi, tôi cũng thấy vài quyển sách đó mà sinh viên
đang sử dụng . Ba tháng sau tôi đến nhà Chiển ở Ngã Ba Ông Tạ, người nhà cho biết
Chiển đã vượt biên không biết sống chết ra sao? Từ đó cho tới bây giờ tôi không
còn nghe tin tức gì của Chiển nữa. Cầu mong cho THẦY CHIỂN gặp may mắn đến được
bến bờ tự do.
Nguyễn Cang
Đầu xuân Nhâm Dần 2022
· Bên dưới là quyển Giải Tích Học của Thầy Chiển, nhà in Tổng Hợp, ấn loát xuất bản sách báo Đại Học Việt Nam
( Đó là một đứa con tinh thần còn sót lại ở VN của Thầy Chiển, khi Thầy bỏ nước ra đi tìm tự do, đánh dấu một giai đoạn nhiễu nhương của đất nước sau 75, một nghiệt ngã cuộc đời Thầy Chiển suýt bỏ mạng ở trại cải tạo Phước Long. Sách của Thầy tới nay tôi thấy vẫn còn hữu ích cho sinh viên ban Toán đại học, vì toán học căn bản được xây dựng bằng những định lý được chứng minh rõ ràng nên không đổi với mọi thời điểm không gian và thời gian. Ngay các đại học bên Mỹ vẫn dùng kiến thức đó ở ban Toán đại học, như đạo hàm, nguyên hàm, tích phân, vi phân, giới hạn và liên tục của hàm số, mà sách Thầy Chiển đã giải nghĩa rất kỹ ở chương cuối năm thứ ba của cử nhân Toán Việt Nam. NC)
No comments:
Post a Comment