NÔNG
DÂN VÀ CON CÒ
Có ai mơ ước chân cứng đá mềm? Có những ai mơ ước chân cứng đá mềm?
Trên thế giới, ở
nước
nào, có người mơ ước chân cứng đá mềm? Chắc chắn là không. Nhân loại chỉ mơ ước
chân cứng thôi. Chân cứng làm gì nhỉ? Để đạp lên mọi trở ngại mà đi. Để thôn
tính chóng vánh đất nước ta cần thôn tính. Để bước những bước dài vạn lý trường
chinh. Để chiến thắng đối phương mang về cúp thể thao quốc tế làm đẹp màu cờ xứ
sở. Ôi, chân cũng là niềm mơ ước của đủ hạng người.
Bây
giờ, trở lại câu hỏi, có những ai mơ ước chân cứng đá mềm? Tôi bảo có. Nhiều
lắm. Người Việt Nam. Người nông dân Việt Nam ở Đàng Ngoài. Tổ tiên ta đó. Chẳng
hiểu giấc mơ chân cứng đá mềm của tiền nhân ôm ấp tự thuở nào? Cứ coi như từ xa
lắm. Bốn nghìn năm hay hai nghìn năm. Một nghìn năm hay một trăm năm. Đến khi
nào giấc mơ chân cứng đá mềm mới toại nguyện? Nước ta, đã một cuộc cách mạng
san phẳng ruộng đất và muốn làm giấc mơ của tiền nhân chìm vào bóng tối. Nhưng
chỉ thấy oán thù chập chùng cùng khắp. Máu và máu đỏ lòm từng luống cày. Người
nông dân, ngoài giấc mơ chân cứng đá mềm, còn chứa chất trong đầu óc những căm
phẫn vô duyên cớ. Lúa hai vụ chiêm và mùa đã thành bốn vụ. Vẫn thế thôi. Giấc
mơ còn ray rứt, chưa khi nào quên được. Mà khi này nó ám ảnh nông dân đến chết.
Không gian và thời gian có nghĩa là một. Nghĩa là, chả có gì thay đổi cả, ở
miền quê chân lấm tay bùn, dẫu rằng cách mạng đã hô hoán cách mạng thành công.
Giấc
mơ ấy ra sao? Có lẽ, những nhà lãnh tụ không biết, không một lãnh tụ nào biết
cả. Vậy nhẩn nha chúng ta đọc mấy câu ca dao:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời trong đất trồng mây
Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm
Trông cho CHÂN CỨNG ĐÁ MỀM
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng
Bài
ca dao này đang ở cuốn Quốc văn giáo khoa thư lớp dự bị. Xưa,
còn bé, lớp tư, tôi học thuộc lòng để mà thuộc lòng. Thầy giáo không giảng giải
giấc mơ ấy. Mà thầy giáo hiểu nổi, cái đầu nhỏ xíu học lớp tư trường huyện làm
sao hiểu nổi. Nay, lớn rồi, năm mươi sáu tuổi, một hôm đọc lại Quốc văn
giáo khoa thư, mới thấy câu ca dao thấm thía. Tôi đâm ra cảm phục giấc mơ
chân cứng đá mềm và bỗng thương xót đồng bào nông dân mình quá. Phải biết rằng,
người đi cấy trong ca dao là một phú nông, nhà có một mẫu đất, ít hay nhiều hơn
một chút. Mẫu đất Đàng Ngoài khác với mẫu đất Đàng Trong. Đàng Ngoài một mẫu đo
được 360 thước vuông, Đàng Trong thì những 1.000 thước cơ. Theo phú nông, sướng
hơn người có vài sào đất “đi cấy lấy công” là bần cố nông. (Bị quẫy lộn vì cách
mạng, bần cố nông sướng nhất, đói nhất và vẫn nghèo mạt hạng). Còn phú nông đi
cấy cho chính thửa ruộng của mình thì phải trông nhiều thứ
lắm.
Kể
sơ qua nỗi khổ mà người nông dân “trông trời trông đất trồng mây”. Có vẻ thi sĩ
quá. Đi cấy mà còn thì giờ ngắm trời, ngắm mây. Khốn nỗi, trông trời để lo hạn
hán, trông đất để lo lụt lội, trông mây để lo gió đổi chiều. Ai ở nhà quê Đàng
Ngoài chẳng thấy được mùa nhãn. Nhãn được mùa là mối lo khôn cùng của nông dân.
Hễ năm nào nhãn sai trái, dơi không đủ sức phá hoại, thì y rằng không vỡ đê
cũng nước lớn. Mùa nước lớn lại là mùa mưa tầm tã. Cả bão nữa. Nông dân thức
suốt đêm nghe tiếng trống canh đê. Còn tiếng trống ngũ liên vọng lại, còn tin
tưởng vì đê chưa vỡ. Khi đê vỡ, tiếng trống canh đê im bặt. Niềm tin tưởng bị
cuốn theo giòng nước lụt. Bấy giờ, nỗi tuyệt vọng không biết nặng bao nhiêu, đè
xuống người nông dân muốn tắt thở. Cả gia tài của mình để ngoài ruộng. Hôm qua,
lúa còn xanh con gái, mộng mị vừa nhú nụ, hạnh phúc mới đâm chồi, nông dân nằm
mê thấy nhà nhà no ấm. Hôm nay, lúa đã chìm ngập dưới nước đỏ ngầu phù sa, mộng
mị đã tan biến, hạnh phúc đã về dưới đáy mồ sâu. Cái giấc mơ của người Việt Nam
luôn luôn thế. Cứ tạo ra ước mơ rồi chả bao giờ mơ ước nằm trong tay. Ôi, “Xuân
đời chưa hưởng kịp, Mây mùa thu đã sang”.
Làm
sao mà kể xiết những dây thòng lọng cuốn chặt cổ nông dân? Mới vài dòng ngắn
ngủi về lụt lội đã lấy làm kinh dị. Ngắn một chút nữa, sau lụt lột, nông dân sẽ
sống ra sao và mơ mộng gì, có lẽ, tôi không diễn tả nổi. Thế đấy, người giàu
ước mơ là người Việt Nam. Không quá đáng đâu, hai chữ Việt Nam, vì dân ta sống
bằng nông nghiệp. Cho nên, nông dân ta suốt đời chỉ trông ngóng: “Trông mưa
trông gió trong ngày trông đêm”.
Cái
dân tộc ấy, dân tộc Việt Nam ấy, không biết căm thù. Chỉ ngóng trông vào thiên
nhiên, và rồi trách móc thiên nhiên. Trời cho ấm no, mình ấm no. Trời bắt khổ
sở, mình khổ sở. Cám ơn trời, và than khổ với trời. Chưa tìm ở đâu một vần ca
dao chống đối lãnh tụ cách mạng, vì đã xúi nông dân đứng lên phát động. Chưa
tìm ở đâu một vần ca dao biết ơn lãnh tụ cách mạng, vì đã giúp nông dân lấy
ruộng đất về làm chủ, không phải làm tôi mọi. Nông dân Việt Nam chỉ cần một
đấng đầy quyền uy. Trời. Trời là đủ. Ngoài trời ra, chả có ai được quyền thay
thế, mặc dù, người ta muốn lắm, con người vĩ đại choán chỗ, song, con người vĩ
đại chỉ là con người, cũng mở miệng lạy trời như tất cả chúng ta. Vậy thì, nông
dân Việt Nam đã cầu trời cho mơ ước của mình biến thành sự thật.
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm biển lặng mới yên tấm lòng
Chao
ôi, một cơn mơ đã gây xúc động cho cả và thiên hạ chưa? Như đã nói ở đoạn đầu,
nhân loại chỉ mơ ước chân cứng thôi. Là đủ rồi. Là thừa sức dẫn đến thành công.
Muôn mặt. Người Việt Nam giầu giấc mơ, “trông cho chân cứng đá mềm,” mới
hả dạ. Có bao giờ bạn nghĩ chân bạn cứng như đá, và đá thì mềm nhũn ra không?
Chắc, chả bao giờ cả. Giầu tưởng tượng cách mấy, bạn cũng đành chào thua người
nông dân Việt Nam. “Trời êm biển lặng mới yên tấm lòng”. Trời
có thể êm, biển có thể lặng, ít lâu, đủ để con người yên lòng. Vậy chân cứng đá
mềm, thì không khi nào xảy ra. Nỗi ước mơ thường vượt quá tầm tay, nên dễ hóa
thành không tưởng. Vậy, chân đã không cứng, đá cũng chẳng mềm. Trời ơi, sao mà
thương nông dân mình quá, mà yêu câu ca dao xao xuyến mộng mơ. Từ bao
năm, trông cho chân cứng đá mềm, kéo dài đến tận ngày nay,
vẫn trông cho chân cứng đá mềm. Có nhiều người đủ sức làm cho nông
dân Việt Nam quên hẳn giấc mơ chân cứng đá mềm, khi họ chỉ nghĩ đến hạnh phúc
không phải chân đất lội ruộng cấy lúa. Đó là quý vị lãnh đạo đất nước. Ui da,
ai dại tin quý vị. Thì lại ước mơ không tưởng như nông dân. Không tưởng, không
tưởng và không tưởng. Đến nỗi, người nông dân Việt Nam sẽ giống như con cò.
Hãy
hình tưởng một nông dân đi trên đường đất sét đầy sống trâu vào ngày mưa dầm
gió bấc, khoác chiếc áo tơi bằng lá, đầu đội chiếc nón cũ kỹ, mặc chiếc quần
đùi. Hãy hình tưởng con cò đứng im lặng một chân giữa cánh đồng không mông
quạnh; con cò đứng một chỗ rất lâu, mưa gió lạnh con cò chẳng nhúc nhích và cá
tôm cũng chẳng có để con cò nhúc nhích. Hình tưởng xong rồi chứ gì? Người nông
dân Việt Nam sao giống con cò thế.
Sự
lầm than của nông dân và con cò tưởng như trời đã định sẵn. Bắt đầu bằng cách
kiếm ăn.
Con cò lặn lội bờ sông
Cẳng dài mỏ cứng cổ cong lưng gù
Bãi xa sông rộng sóng to
Vì lo cái bụng đi mò cái ăn
Vì
lo cái bụng mà lúc nào cũng phải nghĩ cách kiếm ăn. Đói đầu gối phải bò. Con cò
sống hẩm hiu như vậy. Tại sao người ta không nghĩ tới bất cứ sắc chim nào, cho
nó đi kiếm ăn nhục nhã, khổ sở vẫn không no, thân hình hom hem xác xơ? Ấy thế
con cò mới giống hệt con người nông dân. Con cò đã đi vào ca dao. Lừng lững đi
vào. Nó vào ca dao để thắp sáng nỗi nhục nhằn, oan khiên của người Việt Nam.
Nhiều lắm. Bởi ở ca dao, chỗ nào cũng ra con cò. Nó bị oan ước điều gì, con
người giống hệt.
Con cò con vạc con nông
Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò
Không không tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin ông đến mà coi
Mẹ con nhà nó còn ngồi chỗ kia
Làm
sao con cò có thể dẫm nát lúa ở ruộng? Hắn mọi người đều rõ, con cò hiền lành
lắm. Nó im lặng chịu đựng cảnh trở trêu của cuộc đời và cứ thế mà sống ngày này
qua tháng khác, không hề van xin một lời an ủi, cho đến khi nhắm mắt về với
đất. Người nông dân Việt Nam cũng thế. Con người và con cò tuy hai mà một, tuy
một mà hai. Con cò bị vu oan, không cãi lại, chỉ trần tình thôi. Cái triết lý
sống như thế là cao thượng lắm rồi. Đừng đòi con cò phải nín khe rồi lâm
râm Bài giảng trên núi: “Phước cho người khi người ta lăng nhục,
bắt bở và vu oan cho mọi điều ác”. Tôi dám cá rằng, con cò trong ca dao có
trước chúa Jesus. Nhưng, có một câu đời xưa hay đời sau cùng chung một tư
tưởng: “Đừng chống cự kẻ ác”, Jésus dạy, và con cò cũng không chống con vạc,
con nông và ông phú hộ. Rồi lại tiếp tục sống đau khổ.
Con cò đậu cọc cầu ao
Ăn sung sung chát ăn đào đào chua
Ngày ngày ra đứng cổng chùa
Trông lên Hà Nội thấy vua đúc tiền
Con
cò, ít khi, đậu cọc cầu ao lắm. Hôm nay, nó cần đậu cọc cầu ao để thở than một
đời sống không có ngày mai và cũng chẳng ai thèm biết tới. Nó có ăn sung, ăn
đào bao giờ đâu. Thế mà nhấm nháp quả sung thì sung chát, quả đào thì đào chua.
Chán ngán miếng ăn, ngày ngày nó tếch lên cổng chùa đứng chơi. Lâu lâu, nó
ngước nhìn lên Hà Nội thấy vua đúc tiền. Con cò nói đến đó thôi. Nó chả cần
thêm câu hỏi vua đúc tiền làm gì, phát cho ai. Đói rách mà trông thấy vua đúc
tiền thì dễ nổi phồng sự giận dữ. Cò không giận dữ, không nuôi thù hận. Người
nông dân chất phác không nuôi thù hận. Phải nói người nông dân mã thượng biết
bao! Đi tìm ca dao mà xem, có câu nào oán vua, oán thống trị không? Xin trả
lời: Ca dao bay bổng lưng trời, không muốn là đà mặt đất.
Khi
sống đã đẹp tuyệt vời, khi chết ra sao?
Con cò chết tối hôm qua
Có bảy hột gạo với ba đồng tiền
Đồng thì mua trống mua kèn
Đồng thì mua mỡ đốt đèn thờ vong
Ôi,
con cò nghèo quá. Con người nông dân giàu hơn chăng? Gia tài để lại chỉ có bảy
hạt gạo, ba đồng tiền. Cò mua mỡ đốt đèn thờ vong hồn mình. Con cò chết, nó sợ
cái chết không trống không kèn, nên lúc còn sống nó cố dành dụm bảy hạt gạo, ba
đồng tiền để làm ma chay cho xứng đáng. Có chết vẫn sợ vong hồn mình thất thểu
nơi trần thế. Ba đồng tiền mới chỉ có hai, còn một mua cái gì? Con cò không
nhắc tới. Chắc là để cho cò con. Chết như thế đủ đẹp rồi, cò nhé! Cái chết dưới
đây của cò mẹ mới tuyệt vời. Nghĩa là nó làm xúc động những trái tim của con
người sống.
Con cò đi kiếm ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông với tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con
Bài
này nói đủ triết lý sống của con cò. Tôi nghèo, phải đi kiếm ăn vào lúc mọi
người đang ngon giấc ngủ. Cành tre bên bờ ao mềm quá, chẳng may tôi líu quýu
ngã lộn xuống ao. Ông ơi, ông làm ơn vớt tôi vào, đi ông. Nếu ông nghi tôi đem
lòng phản bội, qua sông chửi sóng hay những gì tồi tệ tôi sẽ làm khi thoát chết
thì ông hãy dùng tôi mà xáo măng. Cò xáo măng ngon lắm, ông ạ! Xin ông một ân
huệ trước khi chết: Có xáo tôi với măng, ông nên xáo với nước trong vắt. Lạy
ông, trăm lạy ông, ông đừng xáo với nước đục bẩn, ông nhé! Tấm thân tôi chết
nhơ nhuốc làm đau lòng con cái tôi. Con cái tôi sẽ sống thế nào được, khi biết
mẹ chúng chết ô uế dưới tay ông.
Đấy,
cảm động chưa cái nhân sinh quan của người nông dân Việt Nam, của con cò Việt
Nam. Cảm động liên hồi, tôi đâm lẩn thẩn, chẳng hiểu mình sẽ kết luận bài này
ra sao.
Mỗi
người thường có hai cuộc đời. Cuộc đời sống thật và cuộc đời mộng du. Sống thật
buồn nản, muốn ly dị với trần thế ngay lập tức. Sống mộng đẹp tươi, muốn bám
lấy cõi mơ đừng để mất. Khi người ta sống đời sống thật, bi quan không thích
sống nữa, đành tự tử cho xong. Nhưng, lúc ngồi bên bờ tự tử, người ta lại sợ tự
tử. Sợ thực. Không biết mình chết sẽ ra sao. Cuối cùng, cuộc đời mộng du cứu
rỗi người ta. Vì thế, mỗi người sống bằng hai cuộc đời.
Người
nông dân Việt Nam sống cuộc đời thật rất đỗi kinh hoàng. Họ cũng thoát từng lúc
mà đi vào cuộc sống mộng. Buồn thay, mộng của họ được nói ra và thành không
tưởng. Bởi vậy, cái không tưởng nó nhập hồn con cò để người nông dân lại sống
cuộc đời thật. Bây giờ thì cả hai. Đời sống thật nông dân và đời sống thật con
cò. Ai đã ví người nông dân giống con cò nhỉ?
Duyên Anh
Robinson, 11-10-90
No comments:
Post a Comment