NGƯỜI CHỊ TÊN THƯỜNG
Cho một người chị không phải người
trong chuyện
Hôm nào cũng vậy, từ ngày đổi về dạy trường
trung học quận ở đây, chắc cũng chừng hơn hai tháng, trường nằm ngó ra bến xe
bên kia đường, xuôi ngược lên tỉnh xuống thành, lúc nào cũng đông người đến người
đi, người bán hàng lỉnh kỉnh, tiếng gọi tiếng rao nghe rõ mồn một, vang rân cả
một khúc ngã ba, có hôm vô tới sân trường.
Tới giờ nghỉ trưa, là
anh thả bộ về nhà trọ, dưới khúc quanh không xa, anh thường đứng lại ở góc đường,
nhìn hai đứa nhỏ, một gái một trai, chắc là chị em, chị chừng chín em độ sáu bảy,
đầu tóc màu khét nắng, chị bưng cái mâm đan bằng tre, đựng mớ bịch bánh tráng kẹo,
đứa em khệ nệ cái rỗ đội trên đầu, mấy xấp bánh tráng dẽo, chạy lúp súp theo mấy
cái xe đò, đậu lại chờ đón thêm khách, miệng mời tiếng ông tiếng bà, thằng nhỏ
trông thật dễ thương và xem ra lanh lợi, lúc nào cũng thấy cười toe tét.
Nhìn hai đứa mà
lòng cứ ray cứ rứt, con cái nhà ai tội nghiệp, ngày qua ngày anh cảm thấy có
cái gì là lạ trong đầu, thấy mà thương thương làm sao đó, nhất định sẽ làm quen
cho được.
*
Trưa thứ sáu, nắng
chang chang, trời cũng cái nóng như mấy ngày trước, bến vắng xe, đám người bán
hàng tụ nhau tốp ba tốp năm, ngồi nghỉ dưới tàn mấy gốc me lớn bên kia đường,
xen kẻ giữa những cái sạp bán hàng, không có mấy người mua.
Từ trường ra, cũng
đi men theo bên này lề đường như thường lệ, chưng hửng nhìn qua bên kia, ngó
lên ngó xuống, không thấy bóng dáng hai chị em đứa nhỏ đâu hết, lấy làm lạ, anh
băng đại qua đường, lẹ chân đi gần tới chỗ mái hiên nhà cuối dãy phố, sau gốc
cây me vắng, đầu bến xe, không thấy thằng em, chỉ thấy có con bé chị ngồi một
mình nhìn ra đường ăn dỡ dang trái bắp nguội.
Con bé ăn nói dễ
thương, một dạ hai thưa, mặt mày xinh xắn, trả lời anh mà mắt rưng rưng muốn
khóc, em nó hôm nay bị bệnh, nóng ho, ở nhà với mẹ, nhà nó nghèo lắm, mẹ có tật,
chân bị què, đi khập khễnh, phải chống nạn, mắt kém, nó học tới lớp nhì ở miền
nào xa lắm, rồi thôi, nó không nhớ ở đâu, mẹ dắt hai chị em trôi giạt về đây, ở
đậu bên chái hiên sau của cái chùa nhỏ cuối chợ quận. Anh giựt thót người nhìn
con bé, khi nói tên mẹ nó là “Thường”.
Anh hỏi lại, con nhỏ
giờ mới cười “dạ”, anh thừ người ngó ra hướng dưới chợ, lầm thầm “chị
Thường”. Anh không giàu có gì, nhưng cũng đủ tiền mua trọn cái mâm bánh
tráng kẹo và bánh tráng dẽo của hai đứa nhỏ, nghỉ bán sớm, có cái gì đó linh
tính làm anh cứ nghỉ ngợi suốt mấy ngày, nên nhất định phải theo về chỗ ở của
hai đứa nhỏ cho bằng được.
Trời buổi sáng chưa nắng, vừa tới cổng chùa,
cái cổng rĩ sét, khép hờ không đóng, thằng nhỏ vừa chạy vào vừa hô to:
-Má ơi má ơi,
bán hết rồi má ơi!
Không thèm đợi chị
nó và anh ở đằng sau, tới chái hiên đứa con gái chỉ về hướng người đàn bà, quần
áo một màu nâu bạc phết đang cặm cụi, khập khễnh đở mấy tấm vạt tre đan, trải
bánh tráng lên cái giàn cây, dựng sơ sài phơi nắng, con nhỏ bỏ cái mâm xuống,
đi lẹ về chỗ người đàn bà, nói vọng lại:
-Má con đó
Nghe tiếng nó, người đàn bà bỏ tấm vạt xuống,
quay lại, anh cũng vừa kịp tới, anh chết trân, đứng bất động:
-Trời ơi chị Thường!
Chị cũng há miệng bật
khóc:
-Cậu út.
*
Chị Thường, chừng
mười lăm mười sáu, không biết ở đâu, ông sư già dẫn về ấp chợ ở, lo đèn đuốc,
quét dọn như “ông từ” trong chùa, chị siêng năng, nói năng nhỏ nhẹ. Nhà
anh ở cuối phố, ba má chỉ có anh là con, lúc đó mới lên tám, ông bà cũng già,
có miếng vườn trồng lộn xộn, xoài bưởi, cam quýt, không lớn nhưng bán cũng bộn
tiền, mấy năm trước anh còn nhỏ, chẳng biết ất giáp gì công việc coi sóc, cứ chạy
nhảy theo ông bà, hết mương này tới mương kia, tưới cây tĩa nhánh, nhưng ngày
qua ngày ông bà thường bệnh luôn, không chỉ mõi chân, nhức tay mà còn ho hen,
thấy chị Thường dễ thương, thật thà, ông bà xin ông sư già cho phép chị tới phụ
việc, lo giùm một tay hàng ngày.
Từ đó, mỗi sáng sau
khi lo nhang đèn ở chùa chị nhanh nhẹn chạy qua vườn làm việc đã giao, chẳng những
vậy, chị còn không quảng ngại việc nhà, chị nhanh nhẹn giúp má, nấu nướng giặt
giũ, nhiều khi chị làm cả chuyện thoa dầu nắn bóp chân cẳng ông bà những lúc trở
gió trái trời, ba má thương quá đi mất, xem chị như con, ông bà lo cho chị thêm
tấm quần miếng áo ngoài số tiền trả công hàng ngày.
Chị còn lăng xăng bận
rộn với anh, nào là tắm rửa, cơm nước, chơi đùa, anh giờ quấn quít bên chị hơn
là lẽo đẽo theo ba theo má như ngày trước, anh thương mấy con trâu con gà, trái
cam trái xoài mà chị mằn mò nắn bằng đất sét lấy từ đám đất cày ngoài ruộng cuối
làng, thương những cái đó và thương luôn chị nữa.
Cứ vậy, vài tháng
sau ông sư già viên tịch, vài ông bà lớn tuổi trong làng, đứng ra lo liệu,
nhang đèn, chuông mõ chờ người sư mới thế, không biết họ bàn với ba má anh thế
nào, chị Thường khăn gói về ở hẳn nhà anh, trong nhà từ đó có chị thêm vui. Có
lần má anh bị bệnh nặng, chị theo lo cho bà tận dưới nhà thương quận, chị đi về,
miếng cháo miếng thuốc cả mười ngày, thức đêm thức hôm mà vẫn nói cười luôn miệng.
Năm anh lên lớp Đệ
Lục trường tỉnh, có anh trai ấp chợ phải lòng, quen không bao lâu, xin hỏi cưới,
ba mẹ vui lòng, con gái lớn rồi, mừng cho chị. Hè năm đó, đám cưới xong, chồng
chị nhập ngủ, chị theo chồng lên một tỉnh sát biên giới nơi đơn vị anh đóng. Từ
đó nhà vắng hơn trước, còn lại ba má già yếu thêm, miếng vườn không ai coi sóc,
hoa trái dường như vắng chị cũng buồn, không còn rộn ràng trổ, mặc cho mùa tới
và cũng từ đó anh không gặp lại chị Thường.
Năm anh lên Đệ Nhị,
má mất vì căn bệnh tiểu đường kéo dài, ba đem má về chôn ở cái nghĩa địa, có mồ
mả ông bà, miếng vườn bán rẻ lại cho ai đó, rồi ba dọn về trên tỉnh.
*
Hai chị em cứ nhìn
nhau mà khóc, hai đứa nhỏ chẳng biết tại sao, đứng xa một khoảng ngắn, dáo dát
ngó rồi thúc thít khóc theo. Bà sư cô già đứng nhìn từ góc sân nãy giờ, buồn
thiu, đưa tay ngoắt rồi quay lại bỏ đi, hai đứa nhỏ chạy theo bà về hướng chánh
điện. Cả hai ngồi xuống cái băng cây đặt dài theo chái hiên, có tiếng chuông
ngân dài ra từ chánh điện, chị sụt sùi kể chuyện mình, anh rươm rướm mắt nghe:
“Theo chồng về tỉnh
xa, chị sinh ra con chị trước rồi thằng em sau, năm thằng em lên ba thì không
may chồng chị tử trận, người ta đem anh về chôn ở một nghĩa trang quân đội, vốn
tứ cố vô thân, chị dắt hai đứa nhỏ về lại quê cũ, tìm nhà ba má anh, nhưng nhà
không còn đó, chòm xóm giờ cũng lạ, ở tạm ai đó một hai ngày rồi trôi giạt xuống
đây, nhờ có người bạn hàng thương tình chỉ đường đi nước bước cho việc bán hàng
bến xe, chắc kiếp đời đã định vậy, một lần nữa chị nương náu cửa chùa”.
*
Bải trường, học trò
nghỉ hè, từ giã bà sư cô già, từ giã chái hiên cửa chùa, chị dắt hai đứa nhỏ
theo anh đón xe đò về tỉnh, gia tài của ba mẹ con mang theo xếp gọn không đầy
hai túi xách bằng vải, thêm bộ quần áo mới hai đứa nhỏ mặc lần đầu mà anh đã
mua cho ở chợ quận ngày hôm trước.
Trên chuyến xe đò lớn
sáng hôm đó, chị Thường ngồi nhìn hai đứa con, ngây thơ, vô tư chỉ chỏ cảnh vật
ngoài cửa kiếng nói cười, chị sung sướng cười vui lây nhưng cười mà khóc.
Anh ngồi nhìn, cũng
một lần nữa như lần cầm trên tay con trâu trái cam ngày cũ, nắn bằng đất sét mà
chị đã làm, thương mấy cái đó bao nhiêu thì giờ đây, anh cũng thương cho người chị
tên Thường bấy nhiêu.
Thuyên Huy
Viết lại
từ một chuyện đã cũ 2022 cũng là chuyện tưởng tượng.
No comments:
Post a Comment