NHỮNG CÁNH BƯỚM KHÔ VÀ NẤM MỘ
Nhà nó, căn nhà
vách cây mái tôn không lớn không nhỏ, nằm cuối khu phố chợ xã. Nó không có anh
có chị, một mình, không như mấy nhà hàng xóm, đông vui, ồn ào sáng trưa chiều tối.
Ba nó làm thợ đứng máy cho cái nhà máy xay lúa khá lớn, bề thế, lúc nào cũng đông
nghẹt người tới người đi, xe vô xe ra, chất đầy nhóc bao gạo, bao lúa, chưa kể
mấy cái xe bò xe trâu nặng chình chịch từ hai ba xã kế bên từ mờ mờ sáng, chưa
có mặt trời tới xế trưa đứng bóng, có khi tới cả lúc nắng ngã về chiều. Má nó ở
nhà, nuôi ba bốn con gà con vịt, chắc cho vui vì không thấy đem bọn nó đi bán cho
ai hay ngoài chợ.
*
Năm nó lên ba, một
ngày ba đi đâu đó về có chị theo, chị mười tuổi, má mừng lắm, nhà có thêm người,
giờ nó cũng mừng có chị có em, giống như mấy đứa nhỏ nhà hàng xóm trong chợ. Chị
hiền lắm, cái gì cũng cười, cái gì cũng biết làm, quét nhà nấu cơm phụ má sáng
trưa chiều tối, chị lo cho nó đủ thứ, dắt nó đi chơi, chỉ con bướm con chim,
nói này nói nọ nhưng nó chẳng biết gì nhiều. Từ ngày đó, nó ngủ với chị, chị
hát bài ca nhè nhẹ, hát ru em, không còn đòi má nữa.
*
Chị vô học lớp nhất
trường làng, nó biết buồn biết nhớ mỗi khi chị đi học, vắng nhà, trường cách
nhà con đường đất mòn, khuất sau hàng bông Dăm Bục rậm xanh lá, không bao xa, cứ
nghe trống trường, tiếng học trò lao xao, ồn ào ra về bên đó, nó chạy ra trước
cổng rào nhà chờ, chị hối hả về, hai chị em ôm nhau cười khúc khích.
Rồi năm sau, chị lên tỉnh, học trung
học, Đệ Thất rồi Đệ Lục, thì nó vô lớp Năm trường làng, chị xa nhà, thứ bảy chủ
nhật mới về, nó nhớ chị nhiều hơn lúc trước, nó buồn, ba má cũng buồn theo, có
chị quen rồi, nó không còn chờ nghe tiếng trống trường và tiếng học trò lao xao
mà chờ tiếng xe đò nhỏ giữa trưa từ trên tỉnh về ngừng cho khách xuống ngoài đường
lộ.
*
Cứ vậy, chị về, nhà vui, ai cũng vui,
nó không màng theo mấy thằng bạn đá banh, đánh đáo, tạt lon, chị cũng phụ má
nhiều hơn trước, xách nước, giặt giũ, nó theo chị chạy chơi ngoài khu đồng cỏ,
nhiều hoa dại vàng tím cuối chợ, phía bìa làng. Nó thích nhất là chị lấy cái vợt
mà ba làm cho, chạy đuổi bắt mấy con bướm đủ màu, thật đẹp, đem về nhà, chị lấy
kim chích, chích mấy con bướm thuốc gì đó, không biết chị kiếm ở đâu, bỏ vào
cái hộp mủ trắng trong suốt, thêm mấy nhánh cây khô nhỏ tí teo, bướm chết nhưng
vẫn còn nguyên màu sắc, đậu một chỗ trên nhánh cây, nhìn như còn sống, nó khoái
chí, hảnh diện nói về chị khi đám bạn trầm trồ, ngây ngô há miệng ngẫn ngơ.
*
Theo bước chị, nó lên trung học, năm
Đệ Thất thì, lần nữa nó xa chị, xa hơn và chờ đợi lâu hơn, giờ thì cứ nhớ chị,
nó khóc, chị xuống Sài Gòn vào đại học Sư Phạm, mấy năm sau, tốt nghiệp chị về
dạy ở một trường trung học dưới miệt miền Tây. Về nghỉ hè đầu năm lên Đệ Nhị nó
chuẩn bị thi Tú Tài Một, hai chị em đã thôi không còn bắt bướm lâu rồi nhưng mấy
con bướm trong cái hộp của những năm xưa, để trên đầu tủ giữa nhà vẫn sặc sỡ
muôn màu như cũ dù có chút nhạt phai.
Trở xuống trường lại,
chị hứa sẽ về mừng nó thi đậu. Cuối hè năm sau, gởi thư báo tin vui, nó đậu Tú
Tài Một, chị nhắn người bạn quen, dạy cùng trường, nhân lúc về lo chuyện hôn
nhân cưới gả, chị hứa sẽ về đúng ngày.
*
Ngày mừng nó thi đậu, cả nhà đi ra đi
vào chờ, thường thì như những lần trước, chị lúc nào cũng về trước khi trời giữa
trưa. Nó sốt ruột, đứng ngóng ra đường lộ, nắng càng lúc càng rộ lên khỏi mái
ngói đầu chợ, chỉ có hai ba chiếc xe đò từ tỉnh xuống ngang qua nhưng vẫn chưa
có chiếc nào từ miệt dưới ngược lên, ba má nó cũng không khác gì hơn, lo lắng
ra mặt, họ chờ và chờ mãi cho tới gần chiều, chị vẫn chưa về.
*
Hôm đó, chị đón chuyến xe sớm nhất
như mọi khi, trời cũng mù mờ sương như những lần trước, ngồi trên xe nhìn ra đường,
tay cầm gói quà nhỏ, gói giấy màu cẩn thận, đựng cái đồng hồ hiệu Seiko, món
quà mừng em mà chị đã nhờ một chị bạn cùng dạy chung trường mua khi chị này về
Sài Gòn, cười một mình. Không may, bị trúng mìn, do quân du kích gài lại trong
mấy cái mô đất mà họ đấp, chặn đám lính quận mở đường sáng, đêm hôm qua, chiếc
xe đò bể nát, văng xa vô tới bìa rừng trong, cách đường bờ ruộng lấp xấp nước, mấy
chục người bị thương, bảy tám người chết, trong đó có chị.
*
Đám tang xong, con
quạ đen đậu trên nhánh cây Sao già cằn cỗi kêu những tiếng kêu rã rời nảo nuột,
nó cứ ngồi đó khóc, khóc sụt sùi khóc như mưa, nấm mộ mới đấp còn hăng hắc mùi
khô, trời đã đứng bóng và đứng gió, mây đen một màu xám xịch, người phụ chôn cất,
người tiễn đưa đã tản dần, thưa dần, nghĩa địa làng không còn ai, ba má nó đứng
dưới gốc cây Sao già, chỗ con quạ đen đậu, vẫn còn kêu, không xa nhìn lại, tay
quẹt nước mắt, lắc đầu thở dài. Trước mặt nó tấm mộ bia đá xanh nhạt nhòa tên
chị.
*
Cái hộp trắng có mấy
con bướm mà nó cất giữ để nhớ chị, mỗi khi chị đi vắng, bao nhiêu năm qua, từ
ngày chị mới về nhà, đã chôn theo dưới mộ, để chị ở đó còn có bên cạnh cũng như
có nó, mà đừng buồn. Nó cố giang tay thật rộng, đưa qua đưa lại cái đồng hồ
Seiko, mong chị thấy nhưng không làm sao ôm trọn được nấm mồ, nước mắt ràng rụa
chảy dài xuống thấm đất khô, nó bật thành tiếng nấc nghẹn “chị ơi chị ơi”,
bất chợt trời đổ mưa.
Thuyên Huy
Cũng chuyện một đời người nếu có thật.
No comments:
Post a Comment