TÌNH CA
Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi! Tiếng ru muôn đời
Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi…(1)
Lâu
lắm rồi, tình cờ nghe lại bài hát xưa, lòng tôi buồn quay quắt. Giai điệu cũ,
gợi trong tôi bao kỷ niệm của một thời thơ ấu. Bài hát làm tôi nhớ những đêm
giao thừa của thuở còn để tóc bum bê, nhảy lò cò trước sân cùng tụi bạn hàng
xóm.
Những
ngày cận Tết, cả nhà dọn dẹp, lau chùi, đánh bóng lư đồng để đón khách và đón
anh hai, chị tư tôi đi học xa trở về. Tôi nhớ, tôi hãy còn nhỏ lắm, tôi và em
kề được mẹ sai lau các cửa kính rồi rửa bộ tách trà mời khách. Mẹ dặn kỹ bộ trà
Nhật dễ bể, mấy đứa nhẹ tay thôi. Vậy mà cũng không xong. Tôi cũng không hiểu
vì sao bình trà vỡ toang. Con em mặt xanh lét, sợ mẹ la, nó đỗ thừa cho tôi.
Tôi đứng chết trân nhìn con em run như cầy sấy. Mẹ xót của la một trận tơi bời
vì tính cẩu thả, tôi giận nó khóc vùi đêm đưa ông Táo về trời.
Áp
Tết, chị em tôi xúm ra ngoài ngõ ngồi châu đầu bên nồi bánh tét để nghe anh hai
kể chuyện ma. Đêm khuya trời lập xuân se lạnh, đứa nào cũng run lập cập. Nhìn
cả dãy phố nhà nào cũng giống nhà tôi. Dọc con đường bập bùng ánh lửa thơm mùi
nếp chín, nhấp nhô đầu người. Trẻ con lăng xăng chạy qua chạy lại. Mấy ông bà
lão ngồi trên vỉa hè nhai trầu, nói chuyện râm ran.
Năm
nào cũng vậy, ba mua một nhành mai lớn cắm giữa phòng khách, chị em tôi xúm xít
treo thiệp chúc xuân, anh tôi giăng những vòng đèn nhấp nháy. Mẹ tôi thích
chưng hoa cúc đại đóa, hoa hướng dương. Chị tôi lại thích hồng nhung. Còn tôi
cũng để một chậu chân chim bé xíu trên bàn học. Bàn thờ Phật phải là hoa sen
trắng, bàn thờ ông bà là hoa huệ. Nhà tôi tràn ngập các loài hoa đủ màu.
Chiều
ba mươi Tết, sau khi dọn dẹp nhà cửa, chị em tôi tắm gội tẩy trần. Bé út như
mèo sợ nước cũng khoái chí ngâm mình trong làn nước ấm. Nồi nước tắm thơm mùi
lá chanh, lá bưởi chị tôi mua sẵn ngoài chợ lúc chiều. Như một nghi lễ, ai cũng
muốn thân thể mình trong sạch đón năm mới. Những đêm giao thừa, chúng tôi chen
lấn trên cái giường đôi khá lớn xem ti vi, chờ giờ khắc thiêng liêng. Ba mẹ
chuẩn bị bàn thờ cúng rước ông bà và mâm ngũ quả cúng giữa nhà, cả cái giếng ở
góc sân ba cũng bày một mâm cúng hà bá. Mùi nhang trầm lan tỏa khắp nhà. Tôi hỏi
ông hà bá mà cũng biết ăn hở ba. Ba la, nói tùm bậy, con nít không nên vô lễ
với trên trước. Tôi không hiểu tại sao lại như vậy.
Anh
hai tôi có trọng trách đốt pháo, mấy chị em chạy theo anh lên sân thượng, nhìn
anh treo những phong pháo nối dài. Tí tửng vỗ tay, sau đó tranh nhau chạy xuống
cầu thang, nép mình bên nhau hồi hộp chờ tiếng pháo nổ. Những tràng pháo nổ
giòn vang nối tiếp từ nhà này sang nhà khác, mang niềm hân hoan đến cho mọi
người. Thỉnh thoảng những cái pháo tống to tổ bố nổ đùng đùng, ù cả tai. Khói
pháo mù mịt tràn ngập thành phố. Cu út bao giờ cũng lăng quăng chạy mò xác
pháo, tìm xem có cái pháo đẹt nào chưa nổ để nó châm ngòi. Những cái pháo đẹt
ấy, chỉ xịt ra một chút lửa, cu cậu đã thích chí la toáng lên rồi. Trong cái se
lạnh của năm mới, lòng ai cũng lâng lâng một niềm vui khó tả. Tôi thích dậy sớm
sáng mồng một để mặc đồ mới, sắp hàng chờ mẹ lì xì và chờ những lời chúc Tết
của ba. “Năm mới thêm một tuổi các con phải ngoan, học giỏi.” Ba tôi luôn giữ
nếp nhà. Nhưng nếp nhà của ba, liệu sẽ ra sao khi đàn con khôn lớn, khi xã hội
đổi thay?
Tôi
còn nhớ, mồng một Tết mẹ thường căn dặn chị em tôi không được chạy qua hàng xóm
xông đất, người ta cữ. Có chuyện gì cả năm họ đổ thừa. Xác pháo đỏ thắm tung
đầy sân, mẹ cũng chờ xong ba ngày Tết, chúng tôi mới được quét dọn. Sáng sớm
mồng một, cả nhà đi chùa lễ Phật, hái lộc đầu xuân, xin xăm, rồi đi chúc tết
ông bà.
Tôi
còn giữ tấm hình cả nhà chụp chung Tết năm 75 như một báu vật. Ba mẹ tôi đứng
giữa mỉm cười hạnh phúc, đàn con xếp lớp đứng theo thứ tự toét miệng cười tươi.
Tấm hình đó giữ hộ cho chúng tôi tất cả sự yên lành của một thời niên thiếu.
Rồi
thời đại thay đổi. Hoàn cảnh gia đình tôi cũng đổi thay.
Tôi
nhớ những năm đầu hòa bình, cuộc sống gia đình tôi chừng như đảo ngược. Ba mẹ
tất tả ngược xuôi. Tôi không hiểu gì cả. Ba “không được lưu dụng.” Cũng như
cậu, dượng cũng “không được lưu dụng,” dù họ tài hoa. Cậu, dượng về quê cày
cuốc kiếm sống. Thơ phú, hội họa gác trên chái nhà. Đêm đêm làm bạn với chiếc
radio nghe lén thời sự nước ngoài. Riêng ba tôi vẫn ở lại thành phố, ông nỗ lực
tự làm việc theo cách riêng của mình. Những công việc trước đây ba không hề
nghĩ đến. Tôi vẫn nhớ tiếng cửa sắt ken két lúc nữa đêm ba lách mình ra khỏi
nhà lên rừng mua song mây hay làm thủy lợi, trồng rừng… cho dù mưa hay nắng,
cho dù trời lạnh như cắt da. Ba nói ba khổ cực chỉ mong các con học thành
người, sau này không ai ăn hiếp. Ba dạy chúng tôi làm người không được sống
quỳ. Tôi biết chị em tôi đã may mắn lắm. Mấy đứa bạn tôi, tan tác khắp nơi. Có
đứa bỏ học nữa chừng theo nhà đi kinh tế mới, dù ba nó đi cải tạo chưa về. Có
đứa thi đậu đại học mấy lần, mà lần nào cũng không được đi học vì lý lịch “quá
đen.” Trong lớp, nhìn qua nhìn lại tự dưng thấy thưa dần, tụi nó biến mất trong
im lặng.
Đã
hết rồi những tiếng cười trong như pha lê của lũ bạn tôi vang vang trên bờ biển
vắng. Đã hết rồi những ước mơ ngông cuồng làm nhà du hành vũ trụ, nhà bác học
tài ba.
Con
người như mầm cây luôn cần không khí và ánh sáng, tự dưng bị chụp kín bốn bề.
Mầm cây muốn sống phải vươn ra ngoài ánh sáng cho dù bị bầm dập đau đớn hay bị
đứt gãy nữa chừng. Đó là quy luật của cuộc sống không gì ngăn cản được
Sau
này tôi mới hiểu vì sao trong giai đoạn đó, ba luôn luôn nói thích ăn cơm cháy.
Nhà
đông con, cơm trộn mì vẫn không đủ bữa ăn. Ba luôn nhường nhịn cho con mình ăn
trước, và cứ nói ba thích ăn cơm cháy. Mỗi lần nghĩ lại tôi muốn ứa nước mắt.
Trước đây ba tôi có bao giờ thích cơm cháy đâu. Nhà có người làm, nhưng mẹ vẫn
thích tự lo cơm nước tươm tất cho ba. Tôi nhớ, nhà ưa đãi tiệc, ba thường dẫn
đi ăn tiệm cuối tuần. Chưa bao giờ chúng tôi tưởng tượng có ngày phải ăn cơm
trộn khoai mì.
Xưa
kia, mẹ làm y tá. Ở nhà mở tiệm thuốc Tây bán theo toa bác sĩ. Bây giờ phải lén
lút bán thuốc chữa bệnh như đi ăn trộm, sợ công an đến hỏi thăm bất ngờ.
Ba
bực bõ nhất quyết không chịu thua. Ba tìm cách mở quầy bán sách cho mẹ trông và
cũng có sách cho con mình đọc. Tôi nhớ sách thời đó, toàn là sách của Liên xô
gáy cứng giấy trắng in đẹp. Không hiểu tại sao, được vài năm nhà tôi bị kiểm kê
không cho bán sách nữa.
Tôi
thích đọc Bông Hồng Vàng của Pautôpxki, Cánh Buồm
Trắng của Aimatôp, Chiến tranh và Hòa bình của
L. Tônxtôi… còn sách của Việt Nam, Hà Nội in giấy vàng xỉn, đen thui, toàn là
Chị Út Tịch, anh hùng Nguyễn Văn Trỗi… tụi tôi đọc chán ngắt. Tôi cứ tiếc tủ
sách Tuổi Hoa tôi thường đọc ngày trước nào là hoa xanh, hoa đỏ, hoa tím, tạp
chí Thiếu Nhi của Nhật Tiến, Ngàn Thông của
Duyên Anh, với những hình vẽ của họa sĩ Vi Vi mà cả thảy chúng tôi đều yêu
thích…rồi truyện tranh Tin Tin, Phan Tân – Sỹ Phú, Lữ Hân – Phi Lục, Lucky
Luke, Astérix – Obélix, truyện dịch, tủ sách Tự lực văn đoàn, tủ sách học làm
người của Nguyễn Hiến Lê… những quyển sách lý thú một thời tôi say mê, không
hiểu sao nhà nước lại tịch thu.
Tôi
nhớ những đêm khuya ba ngồi canh chị em tôi học thi, mẹ đem cho chúng tôi từng
ly sữa. Nhiều hôm học mệt lười biếng tôi ngủ. Bỗng thức giấc khi thấy ba bỏ
mùng, hay đập tôi dậy vì ngủ gục.
Nếp
nhà của ba mẹ, chị em tôi luôn cố gìn giữ. Cho dù mỗi người một cuộc đời thăng
trầm với nhiều chí hướng.
Ngôi
nhà ngày xưa nay không còn nữa, nó đã thuộc về một người chủ khác. Ba tôi cũng
đã mất rồi. Nhưng những kỷ niệm của gia đình tôi trong mái nhà xưa mãi là điều
thiêng liêng mà chị em tôi vẫn luôn gìn giữ. Tận trong sâu thẳm chúng tôi biết
ngôi nhà cũ mãi mãi toả sáng, nó luôn trở về trong giấc mơ tôi.
Tôi
nhớ những cánh mai vàng nở sớm, rung chậm rãi trong không gian hiu hắt của đêm,
những cánh mai nhỏ xinh xắn vẫn còn vàng lịm trong trí nhớ tuổi thơ tôi.
Tôi
nhớ căn nhà bên rẻo biển của mình, những đêm khuya gió thổi rào rạt, hương muối
mặn nồng. Tôi nghe rõ tiếng sóng vỗ vào bờ cát, như tiếng ru êm của mẹ vỗ vễ
giấc khuya. Tôi nhớ tiếng ghe thuyền đánh cá, tiếng í ới của các ngư dân ra
khơi sớm và cả tiếng con thằn lằn tặc lưỡi trên bức vách đầu đêm.
Nhớ
ơi là nhớ cầu thang ba làm ngoài trời để đón gió biển, tôi thường ngồi lặng
hàng giờ để ngắm mặt trời lên hay ngắm mặt biển dát vàng những đêm trăng sáng.
Có ai
trong cuộc đời không một lần ao ước trở về thời bé dại:
Cho tôi lại ngày nào
Trăng
lên bằng ngọn cau
Me
tôi ngồi khâu áo
Bên
cây đèn dầu hao
Cha
tôi ngồi xem báo
Phố
xá vắng hiu hiu…(2)
Nhưng
những ao ước trở về của chúng tôi vượt qua giấc mơ tuổi nhỏ, vượt qua nỗi ham
muốn trở về với quá khứ tuổi hoa niên, chỉ giản dị là ước muốn trở về với một
xã hội đạo đức, lương thiện, nồng ấm tình người.
Cuộc
sống, tôi biết, là những vòng quay, rồi có lúc con người cũng trở về nơi chốn
cũ. Có những sự trở về thật tình cờ trong tâm tưởng, bất chợt từ một giai điệu
bài hát, một hình ảnh thân quen hay một mùi vị gợi nhớ… giúp ý thức những mất
mát của thời đã qua. Cũng có sự trở về như những chuyến hành hương để được tắm
trong nỗi buồn vui được mất của kiếp người cùng màu da, ngôn ngữ.
Nhưng,
cũng có sự trở về đầy khó khăn, trăn trở trong ước muốn thầm lặng mà quay quắt,
cùng nhau xây lại ngôi nhà mà cha ông đã gây dựng. Dù biết chắc con đường phía
trước vẫn còn nhiều chông gai, con người vẫn muốn trở về.
Về,
để không bội ước.
Về để
ước mơ trên chính quê hương mình.
Ban Mai
08/02/2007
1. Tình ca – Phạm Duy
2. Kỷ niệm. –Phạm Duy
304Đen
– llttm - OVV
No comments:
Post a Comment