LÒNG TRẦN
Con đê dài rộng,hai bên trồng dừa Tân Quan cao hơn đầu người thẳng
hàng, đều khoảng. Những quày dừa màu hỏa hoàng oằn trái. Bóng dừa chìm dưới đáy
nước của hai đầm sen – bên trái đầm sen trắng, còn bên phải đầm sen hồng. Từ
con đê đi vào khoảng ba trăm thước, một ngôi chùa nằm im lìm giữa hai hàng
dương.
Chùa này vì ít thiện nam tín nữ
lui tới nên càng thêm vẻ đìu hiu, lạnh ngắt. Từ đường cái nhìn vào, ít khi
người ta nhìn thắy bóng dáng những nhà tu. Chỉ nhìn thắy chiếc tháp cao trơ vơ
với rêu bám nham nhở và vài viên gạch mục rớt ra lở lói. Mái chùa thấp ẩm ướt
và bóng tối đặc quánh. tiếng kêu vo ve của đám muỗi đói lẫn tiếng chí chóe của
đàn chuột dưới những bàn thờ và tiếng vỗ cánh của đàn dơi hoang. Cao hứng chúng
bài tiết bừa bãi không vị nể các ông Phật đang ngồi trang nghiêm nhìn ánh đèn
chong leo lét. Bình hoa huệ sắp tàn, chỉ còn vài búp gắng gượng trên chót
nhánh. Những cánh trắng héo hắt rớt tả tơi trên bàn thờ không mấy ai buồn dọn
quét chăm sóc.
Lâu lắm, người ta mới thấy bóng một
sư nữ gầy gò xanh xao ngoài năm mươi tuổi ngồi bên hông chùa, uể oải cầm chiếc
dao cùn chặt những cành dương khô rớt trên nền đấ và bó thành từng bó nhỏ. Ni
cô ngồi dưới bóng nắng loang lổ đỏ, khoác chiếc áo cà sa màu cà. Hình như bà cố
tìm vài mảnh nắng rớt nhiều nhất trên nền đất để hóng nắng. Giữa màu lá xanh
bao quanh da mặt, bà càng thêm nhợt nhạt. Ðôi mắt trũng sâu nhiều, tròng trắng
nhìn bâng quơ khi cánh tay gầy guộc khô khan của bà đưa chiếc dao chành lên
xuống vài lượt, và giọng ho húng hắng được đè nén làm bà run rẩy.
Bà đã đến tu ngôi chùa này hồi
hai gò má còn hồng và nụ cười tươi sáng ẩn một chút ngổ ngáo. Nay hàm răng
trắng xa xưa đã rụng mất vài ba cái và đóng bợn vàng ối.
Ông yết ma vốn người bán nam bán
nữ, cao to mập trắng hếu và có đôi mắt lém lỉnh. Hình như ông yết ma này gọi ni
cô bằng dì họ. Ông này cùng theo bà đến chùa hồi mười tuổi và bây giờ ông đã
quá ba mươi. Ông có tật lãng tai, mỗi khi ni cô nói với ông điều gì, bà phải
lấy tàn hơi gào thét. Ông cứ vểnh tai ra, nét mặt ngơ ngác như người đi lạc vào
một thế giới xa lạ thiếu âm thanh. Ni cô mỗi lần muốn đàm đạo với ông cháu quí
phải nặng hơi mỏi cổ nên bà lười biếng ít muốn nói chuyện với ông ta lâu. Ngoài
hai người, còn có một chú tiểu đầu để chởm với thẻo tóc dài vắt qua vành tai.
Chú tiểu này vừa giúp đỡ ni cô như một tiểu đồng, vừa làm thông ngôn khi ni cô
muốn nói chuyện dài với ông yết ma. Chú tiểu có vẻ nhẫn nhục và cam chịu. Chú
sống thui thủi giữa hai người lớn, mỗi người có một thế giới bưng bít. Họ chỉ
hợp nhau vào những buổi tụng niệm, còn ngoài những giờ lo cho Ðầng Từ Bi, họ
mỗi người mỗi việc tưởng chừng như sự hiện diện của nhau thật là mờ nhạt thừa
thải. Chú tiểu lo phần cơm nước. Những bữa cơm dọn với rau muối mè, tương hột
đơn sơ, chú tiểu có thể quán xuyến chu tất. Mỗi buổi sáng, chú ra sau chùa bứt
những đọt mùng tơi, hái những bông mướp vàng ối còn thơm mật, nhổ vài nắm rau
đáng mọc dọc mé đê đem vào luộc. Ông yết ma ngoài mấy buổi tụng kinh, gõ mõ,
còn có bổn phận vun quét rườn rau, cưng dưỡng mấy dây bầu và giàn mướp sai
trái. Cái quá khứ không tì vết của ông yết ma – ông sống xa người trần tục
không tiếp nhận cuộc sống đầy rẫy bon chen – khiến ông chỉ hiểu cuộc đời lờ mờ
ngoài mái chùa. Cơm rau mỗi ngày hai bữa, ông làm việc hùng hục ngoài vườn rau
và ngủ li bì vào những giờ rảnh rỗi. Những giấc ngủ êm đềm khoan khoái nuôi
dưỡng thân xác ông mỗi ngày một to béo đẫy đà. Vẻ mặt ông cười cợt dễ dãi và
phẳng phiu như tâm hồn ông. Ði tu từ lúc còn bé, ông sống kham khổ cũng đã
quen. Ông cảm thấy yên phận để dọn mình mai sau về với Phật Tổ, dẫu làm con
chuột uống dầu tại chùa Tây Phương cũng cam. Ðầu óc ông tiêm nhiễm giáo lý một
cách lờ mờ, cuộc sống trong kinh kệ chưa in rõ vào đầu óc ông. Ông còn mơ ước
gì hơn; vả lại, ông không có thì giờ để nghỉ ngơi suy ngẫm gì ngoài những thủ
tục đọc kinh trồng rau. Công việc nhà chùa chiếm hết ngày tháng. Ông dạy chú
tiểu học kinh và cách tụng kinh. Chú ấy cũng là người để cho ông ta tâm sự về
sự tiến triển của mấy dây bầu, của nụ hoa mướp có mòi thành quả. Chỉ có vậy
thôi, thế mà ông ta sống lây lất hơn hai mươi năm qua đến không ngờ. Ngày đó,
ông theo ni cô Diệu Tâm đến ngôi chùa này giữ vai trò một tiểu đồng, Lúc đó còn
sư cụ và ni cô thì mới ngoài ba mươi tuổi, dung nhan còn mặn mòi sắc lẽm. Ðến
khi sư cụ qua đời và được mai táng trong cái tháp trước sân chùa, ni cô Diệu
Tâm mới lo quán xuyến ngôi chùa này.
Những ngày rằm hoặc những ngày
lễ Phật, chỉ vài ba thiện nam tín nữ đến dâng hương vội vã. Hình như họ nghĩ
rằng chùa nào đông đúc tấp nập, Phật Trời mới có mặt thường xuyên. Chớ chỗ buồn
bã như vầy, chắc Phât Trời cũng lười lui tới. Ông yết ma cảm thấy phơi phới
trong cuộc sống trống vắng quạnh hiu. Những lúc đám khách thập phương này chiếu
cố chùa, ông có cảm tưởng như họ đến quấy rầy sự yên tĩnh của ông. Nhưng ông phải
giữ đúng quy luật nhà chùa là cửa thiền lúc nào cũng mở rộng. Ông biết lán mán
về quá khứ của ni cô ngày xưa lúc bà mới hai mươi tuổi, bà là vợ kế của nhà phú
hộ trong làng Ðạo Ngạn thuộc tỉnh Mỹ Tho. Ruộng vườn của bà cò bay thẳng cánh.
Thủa đó, tất cả phụ nữ miền Nam chưa hề trang điểm, thế mà bà đã biết dùng phấn
nụ do các công chúa của triều đình Huế sai tì nữ đem bán. Trước khi đánh phấn,
bà dùng chỉ đánh cho săn lại rồi lăn lên da, nhổ sạch những sợi lông măng để
cho da mặt tiếp nhận phấn dễ dàng. Ðoạn bà dùng phấn nụ bôi lên mặt, lấy giấy
hồng đơn thấm nước đắp lên mặt má. Bà nhai trầu cho đôi môi nhuộm đỏ.
Thật ra bà vốn là đào hát bộ,
tên Năm Thàng. Ông phú hộ có tính phong lưu tao nhã. Ðòi ông chỉ có việc lấy
hát xướng làm tiêu khiển. Bất kỳ gánh hát nào có bà, ông cũng ngồi ghe bầu theo
coi cho bằng được. Ngồi ghế thượng hạng để cầm chầu, ông say sưa chiêm ngưỡng
tấm nhan sắc chim sa cá lặn của bà trong vai Phàn Lê Huê, Hồ Nguyệt Cô, hoặc
Lưu Kim Ðính. Người bạn theo hầu kiêm luôn anh đầu bếp giỏi, và tối đến, được
theo chủ xem hát. Người phu trạo đã bắt đầu ghiền cuộc sống rày đây mai đó.
Cũng bao nhiêu tuồng hát đó mà nhà phú hộ nọ vẫn coi hoài không chán mắt. Ðối
với ông, cô Năm Thằng từ cánh gà tuông ra làm đổi mới cả sân khấu.
Hai năm xuôi ngược mỏi mê, ông
cố gắng điều đình với ông bầu gánh chuộc cô Năm Thằng bằng mười mẫu đất, đem về
làm vợ kế. Muốn thoát khỏi cảnh đời rày đây mai đó, cô Năm Thằng bằng lòng fới
ngôi vợ thứ hai do sự đồng ý cưới hỏi rỡ ràng của bà phú hộ. Cuộc sống huyên náo
bỗng dừng lại làm cô Năm ngỡ ngàng xa lạ. Sự giàu sang và chiều đãi, nâng như
nâng trứng hứng như hứng hoa của chồng không bao lâu làm cô thêm nhớ lại cuộc
đời sống cũ. Cô nhớ sân khấu, nhớ đòi sống lang thang trên những chiếc nghe
chài xê dịch từ làng này sang tỉnh khác. Cuộc sống tập thể tuy quấy nhiễu cô
thường xuyên, nhưng đem lại cho tâm hồn cô những đổi mới. Cô say những vai trò
nữ tướng, công chúa, bà hoàng… để bôi xóa tạm bợ trong vài tiếng đồng hồ đời
sống nghèo đói cơ cực của mình. Một cô đào hát tên tuổi chưa được mấy mà đã làm
bà phú hộ, có kẻ hầu người hạ. Thế mà cảnh giàu có vẫn không quyến rũ được cô
lâu, không đủ quyền lực làm cô quên hẳn quá khứ.
Ni cô Diệu Tâm trở mình thức
giấc. Bà lần mò ra chánh điện để kịp gác công phu. Trong im vắng hoàn toàn, ni
cô nghe rõ tiếng chuột bọ chạy rột rẹt và tiếng thằn lằn trên kèo nhà chắc
lưỡi. Bên ngoài, ếch nhái dưới ao con trổi giọng uênh oang át cả tiếng dế trong
bụi ô rô nhọn oắt. Ni cô bước ngang phòng ông yết ma. Tếng ngáy từ trong buồng
vọng ra ào ạt, đều đặn. Bỗng giọng mớ ú ớ vang lên:
– Ê ! mấy thằng chăn trâu, bây
bẻ trộm bầu của người ta hả ? Bớ Phật Kim Cang, Phật La Hán vặn họng nó cho
rồi. Bớ Hộ Pháp.
Ni cô mỉm cười, bỏ xuống nhà sau
rửa mặt. Nước mưa chứa trong hàng mái đầm sau hậu liêu mát lạnh lôi bà ra khỏi
cơn ngầy ngật buồn ngủ. Bà trở lên chánh điện vặn to ngọn đèn và thành kính cầm
dùi dộng vào cái đỉnh đồng chung. Tiếng chuông ngân dài như réo gọi ông yết ma
ngủ muộn và nhắc cho chú tiểu đén lúc tụng kinh công phu. Sau đó, từ lò cạo
heo, tiếng heo bị thọc huyết eng éc bên kia sông, cách chùa hơn năm trăm thước.
Tiếng kêu cứu thê thảm của mấy con heo vắn số nối đuôi tiếng công phu. Phía sau
chùa là lò rèn. Tiếng nổ lách tách của đám than vừa rực cháy nghe rất vui tai.
Hai ống bể khò khè như tiếng ngáy ngủ của loài trâu nước.
Chú tiểu dụi mắt đi ra đỡ lấy
dùi chuông thay cho ni cô. Bà ngồi âm thầm giữa chánh điện hai bàn tay gầy lần
tràng chuỗi hạt hổ phách, ni cô tụng hết tuần kinh lui vào trai phòng bên tách
trà nhạt còn bốc khói. Bà ôn lại ngày bà còn là một cô đào chánh đã làm say mê
giết bao nhiêu vương tôn công tử. Ông phú hộ Thọ đã chia gần nửa số gia sản của
ông để đổi cô. Rồi cô bỏ sân khấu về sống trong một ngôi nhà nền đúc cao tới
ngực có hàng chục người hầu hạ. Mỗi lần cô giam mình sốt mẩy, thầy lang được
rước về tận nhà và ở lại đó cho đến khi cô khỏi hẳn. Cô mê món ếch bắc thảo
chưng đường phèn. Người tớ gái đem cục mỡ gần thận ếch để vào một cái thố vẽ
bát tiên và cho đường phèn vào, chưng cách thủy. Cục mỡ ếch nở to bằng cái chén
trong như pha lê, thơm ngọt ngào rồi đặt chiếc thố sứ vào cái mâm bằng gỗ quí.
Trong lúc cô dùng ếch bắc thảo, hai đứa con gái đứng hầu quạt hai bên. Cuộc
sống lắm kẻ nuông người chiều đó níu kéo cô được vài ba tháng. Một hôm đoàn hát
Cẩm Ðuờng Ban có dịp trở lại làng Ðạo Ngạn, cô Năm Thàng cảm thấy có cái gì xót
xa ray rức không yên thúc dục cô, nhứt là khi tiếng chiêng trống và tiếng phèn
la nổi lên ing ỏi ở đầu đình. Cô Năm bồn chồn không thể tả, thế rồi đêm hôm sau
đó, lúc ông phú hộ yên giấc cô lần mò bỏ trốn theo đoàn hát và tiếp tục nghiệp
dĩ. Phải chăng cô muốn thay đổi cái không khí nhờn nhợt âm thầm trôi nổi bên
cạnh ông chồng chỉ có lòng sủng ái, nhưng tình yêu cô cho ông còn lờ mờ chưa
thắng nổi tiếng trống chầu.
Khi ông phú hộ biết cô đã trốn
về đoàn hát, lập tức ông xuống ghe bầu cùng với người phu trạo đi theo. Cuộc
săn đuổi gian nan không làm ông thất vọng. Ông tin tưởng sự đi theo vừa giúp
ông tiêu dao ngày tháng, vừa có dịp săn sóc cô và mong rằng ngày nào đó, cô Năm
sẽ hồi tâm quay trở về. Mãi cho tới ba năm sau, ông vẫn vừa đi theo cô Năm
Thàng vừa tập soạn tuồng hát. Ông đã gởi gấm tâm sự, tình ý vào bản Hát Nam,
Hát Khách và Hát Văn. Ông để hết tâm trí vào các tác phẩm thai nghén suốt mấy
năm liền và sau đó được đưa lên sân khấu để cho cô Năm thủ diễn. Kỳ lạ, sau khi
diễn xong tuồng hát của chồng, cô Năm Thàng ôm ông phú hộ Thọ khóc hu hu rồi
cởi áo mũ giáp trả lại sân khấu và hai vợ chồng đưa nhau về chốn cũ sống lại
cuộc đời cố định. Cô Năm mới tìm thấy tình yêu muộn màng nhưng có một sức mạnh
lôi cô ra khỏi ánh đèn sân khấu vĩnh viễn, bỏ hẳn cuộc sống nay miếu này mốt
đình nọ. Chỉ một năm sau, cô sanh được một đứa con trai kháu khỉnh. Ðứa con
trai đó nối dõi tông đường của ông phú hộ trong khi bấy lâu nay ông cứ ngỡ là
mình tuyệt tự. Ông mừng đến sa nước mắt khi đứa con trai độc nhất của ông càng
lớn càng giống những nét thanh tú trên gương mặt của ông và cô Năm.
Ông phú hộ toan tính biết bao
nhiêu về dự định tương lai cho đứa bé. Nhưng ông đột nhiên chết bất thần vì một
tiếng sét long trời sẹt vào nhà làm đổ cả tủ kiếng và giết ông nhanh chóng. Cái
chết tức tửi đó làm cho dân làng xầm xì bàn tán là ông ăn ở thiếu phúc đức nên
trời sai Thiên Lôi xuống giết gấp rút như vậy.
Từ đó, cô Năm đoạn tuyệt cuộc
đời cũ ngay trong ý nghĩ và tận tụy chăm sóc đúa con để đền ơn đáp nghĩa với
người vừa là tri kỷ vừa là bạn chung tình đã cho cô một niềm tin yêu bao la.
Nhất định cô chẳng đời nào cho con cô nối nghiệp cô. Cuộc đời hát xướng bị
người đời cho là vô loại. Cô cũng chẳng mơ con cô giàu có như cha nó chỉ ước ao
sau này nó sẽ có nhiều bằng cấp học hành đỗ đạt. Cô ẩn nhẫn sống nuôi con, mặc
dầu lúc ông phú hộ vừa mới chết, còn biết bao nhiêu người gấm ghé được lấy cô,
nhưng cô quyết không buồn ngó đến họ.
Ðến ngày giỗ chồng, đợi vào lúc
nửa đêm, cô Năm Thàng hóa trang, mặc áo giáp đóng vai Ðoàn Hồng Ngọc oai phong
lẫm liệt cầm dao múa trước bàn thờ làm như ông phú hộ đang ngồi trên ấy thưởng
thức tài nghệ siêu phàm của cô. Ðường đao bay vun vút quấn lấy người cô. Trong
im vắng, cô cất tiếng hát nho nhỏ những bài hát trong những vai tuồng mà ngày
xưa ông phú hộ đã dày công biên soạn. Sau những đường đao bay như rồng lộn, cô
Năm đúng thẳng người nhìn đăm đăm lên bức ảnh ông phú hộ và hai hàng nước mắt
chảy dài trên đôi má.
Ðứa con của cô được môt năm thì
bị một cơn sốt dữ mà tất cả danh y đều bó tay đầu hàng. Cô Năm tê điếng trong
niềm tuyệt vọng. Ðã bao lần ý nghĩ tự sát chập chờn qua tâm nảo cô. Ba lần tự
tử bằng ba cách : cắt gân máu, uống dầu nóng, treo cổ được phát giác ngay.
Cô lần tính lại đã quá hai mươi
năm, nỗi đau khổ và bất hạnh xa cũ đã bắt đầu mờ nhạt. Những việc nhà chùa làm
cô bận rộn suốt năm bôi xóa dần những nỗi buồn thảm, tưởng chừng vẫ rỉ rả hành
tội cô trong khoảng đời còn lại.
Nắng đã lên từ chân vườn, sau
chùa, vài ba đứa mục đồng đang nghêu ngao mấy bản Kin Tiền. Nắng tuôn ánh sáng
hình rẻ quạt trên mặt đất. Ni cô Diệu Tâm lục đục ở trú phòng. Những cây tre
non được vót từng cọng nhỏ bằng cây tăm nhang bày đầy trong cái nia. Ni cô khệ
nệ bưng nồi nước cơm từ bên bếp đem lên để kế bên nia tăm tre cắt dài khoảng ba
tấc. Ni cô dùng những loài lá có mùi thơm như lá quao, lá ngũ trảo, lá bưởi
phơi khô rồi giã nhỏ xây lấy bột đựng trong mấy chiếc thau đầy ắp. Chú tiểu
ngồi bên cạnh rây lại lần nữa phần bột mịn, thơm ngát, cho vào cái chậu tráng
men sứ trắng vẽ hoa hồng đỏ. Ni cô bỏ những cây tre chẻ nhỏ vào một ống tre cao
độ hai tấc đựng nước cơm gạo mới đặc quánh như hồ nhúng ướt rồi mang ra lăn
những cây tre đó vào chậu bột lá mịn. Hồ trên thân cây tre chẻ nhuyễn quyến lấy
bụi lá thơm và những cây nhang này được đem đi phơi nắng.
Tất cả những thức ăn lẫn hương
hoa cúng kiếng đều do một tay ni cô làm ra. Xài không hết, bà mang ra chợ bán
lấy tiền bỏ vào quỹ nhà chùa. Ðặc biệt bà có tài làm tương ta. Bà lựa nếp đem
xôi rồi bỏ vào nia ủ bằng lá tranh hay lá ngấy độ ba ngày cho nếp lên men rồi
thắng đường cho chút muối, đổ vào nếp làm tương ta. Những món hàng do nhà chùa
sản xuất sẽ nhờ chú tiểu đem ra nhồi chợ bán lẻ. Công việc bề bộn đó chiếm cả
ngày, ni cô Diệu Tâm say sưa, có khi quên cả việc ăn uống. Mãi đến chập choạng
tối, lúc bao tử đòi hỏi gấp rút, bà vào nhà bếp xới tô cơm nguội ăn với chút
tương ta. Ăn uống thiếu thốn lâu ngày làm thân thể bà gầy gò và những cơn ho
húng hắng xảy ra thường xuyên. Nhưng bà không để tâm đến và cơn bịnh cũng lây
lất trôi qua khi ông yết ma chưng cho bà chín lá chanh với chút đường phèn bưng
lên cho bà uống. Món thuốc ho không tốn kém này cũng làm bớt cơn đau ngực và bà
tiếp tục lây lất với cơn bịnh.
Diệu Tâm cảm thấy bứt rứt nơi
ngực. Hình như có một bàn tay nắm lấy trái tim, bà ngột ngạt tưởng chừng trai
phòng này thiếu không khí. Bà gượng ngồi dậy tựa lưng vào thành giường một lúc
rồi cố gắng đứng dậy đẩy nhẹ cánh cửa sổ. Ánh nắng túa vào khe cửa ảm đạm rớt
trên một lõm giường và lác đác vài mảnh vuông trên nền gạch tàu. Diệu Tâm lần
dò ra ngoài để tìm chút thoáng khí. Ni cô lầm lũi bước ra ngồi tựa lưng bên
tháp sư cụ và ngước mặt nhìn trời. Cơn lạnh tiết ra từ trong lá, từ ao sen làm
bà rờn rợn. Cơn ho tiếp tục và ni cô cảm thấy hình như chiếc tháp muốn xiêu đổ
và mặt trời túa ra nhiều vành sáng nhảy múa trước mắt. Diệu Tâm bám chặt lấy
thềm cửa tháp và cơn buồn nôn hối hả dâng lên, ni cô chỉ còn thấy cảnh vật đảo
lộn, ánh sáng và bóng tối xoay tít, và nơi ngực như có cả khối tháp đè lên đó. Tiếng
chim vụt tắt ngỏm đâu đây và cơn gió rào trên ngọn dương ngừng lại.
Ni cô bừng mắt nghe tiếng nói
lào xào văng vẳng đâu đây. Ni cô nhướng đôi mắt còn chút ít thần sắc nhìn quanh
trai phòng. Chú tiểu túc trực bên giường mừng rỡ hỏi dồn:
– Dạ thưa ni cô cảm thấy đỡ chưa
?
Bà lặng lẽ gật đầu và muốn ngồi
dậy. Chú tiểu hiểu ý đến đỡ bà lên tựa lưng vào thành giường. Bỗng cửa trai
phòng vụt mở. Diệu Tâm nhếch mép cười tiếp nhận sự có mặt của đứa cháu dâu và
cô em họ đến đúng lúc bà thấy cơn bịnh này không hy vọng lành. Ðứa cháu dâu gọi
bà bằng cô chuyên nghề sống với nghề cờ gian bạc lận và nghề cho vay đoạt nợ.
Nghề nghiệp nàng đến mức tuyệt xảo. Riêng cô em họ cùng đi theo cô cháu dâu đến
thăm bà là một tay từng nhổ râu ông huyện này, cạo đầu ông phủ kia. Cô em họ có
tấm nhan sắc cũng ưa nhìn thôi, nhưng cô có biệt tài hễ cập sách với ông nào
thì nạn nhân tình ái của cô phải tán gia bại sản một cách nhanh chóng và êm
thấm. Hai người đàn bà thân thích này thường lui tới cửa thiền hầu sám hối để
chuộc tội. Họ thích thân thiện với bà có lẽ nghĩ rằng khi Diệu Tâm đắc đạo để
về chầu Ðấng Từ Bi sẽ với tay níu họ theo lên cõi Niết Bàn. Vì mặc cảm tội lỗi
nên họ càng thích đi chùa dâng hương đem lễ hộc hòng hối lộ Trời Phật cho giải
bớt những oan kiên mà ở trần gian họ đã làm, đang làm và tiếp tục làm nữa…Càng
thấy họ đi chủa là phải hiểu rằng họ vừa làm được một cái áp phe. Khi có nhiều
tiền, họ lại vào chùa thành khẩn hối lỗi, nhưng khi bước ra khỏi chánh điện thì
họ lại quên tuốt.
Ni cô mệt nhọc gắng gượng trả lời
họ vài ba câu hỏi thăm sức khỏe. Rồi không còn ngồi được nữa, bà nằm rũ xuống.
Cô em họ đề nghị ông yết ma nên tụng kinh cho Diệu Tâm để nếu như bà có phải về
nơi cực lạc cũng sớm được nhẹ nhàng hồn phách.
Ni cô nghe trong người rã rời
từng khớp xương. Bà cố mở mắt nhìn ánh đèn vàng vọt đặt trên chiếc bàn cạnh bàn
nước. Cổ họng bà khô đắng và lạt lẽo. Ni cô hé mắt nhìn cô em họ đang ngồi bên
cạnh và cô cháu dâu đang lây quây rót nước từ trong vỏ bình vào tách định bưng
lại. Ni cô khoác tay tỏ ý không cần uống nước. Bà đã ăn chay ròng rã hơn hai
mươi năm quá đạm bạc nên thân thể bà thiếu cã chất đạm.
Bà làm việc quần quật, suốt
ngày. Không biết bà tìm cách quên ẩn tình hay để tăng ngân quỹ nhà chùa. Người
ta thấy ni cô Diệu Tâm không sống cho mình nữa, kể từ khi bà bước vào chùa này.
Bà sống kham khổ, nhẫn nhục và chịu đựng. Tiền công quỹ nhà chùa được đem ra bố
thí cho những người tàn tật nghèo khổ. Bà ăn uống bất thường và coi việc ẩm
thực là điều phụ thuộc. Chỉ cần một chén tương và một nhúm rau chấm tương cũng
rồi một bữa. Từ một tháng nay, bà không ăn uống được như thường nhật, mỗi khi
ăn xong, bà đều mửa thốc mửa tháo ra, đến cả thuốc men cũng không giữ được
trong bao tử. Họ hàng hay được tin bà thọ trọng bịnh cho mời biết bao danh y
đến cứu chữa. Phần linh hồn thì do ông yết ma và một số sư sãi các chùa lân cận
đến tụng niệm siêu độ.
Thân xác bà mỗi mòn trong giấc
hôn mê chập chờn, bà nghe tiếng tụng niệm ngoài chánh điện. Trong bóng tối mù
mờ, loáng thoáng có tiếng muỗi vo ve, đột nhiên ni cô Diệu Tâm cảm thấy miệng
mình lạt quá, lạt kinh khủng. Phải chi có một chút nước tương để bà nếm thử.
Trí óc của bà dán chặt vào ý nghĩ lưỡi bà khô đi, đồng thời nước dãi tuôn ra
đầy miệng. Thế rồi ý nghĩ của bà trôi xa hơn, nước tàu vị yểu, rồi nước mắm. Cơ
thể bà vụt bùng lên. Nước mắm ! Nước mắm ! ni cô Diệu Tâm nuốt ực nước miếng.
Một nỗi xót xa làm nước mắt bà ướt đẫm. Có cái gì chống đối trong từng thớ
thịt, khớp xương của bà.
Bà vụt nghĩ, nếu có một muỗng
nước mắm chui vào bao tử bà thì có lẽ những chấn động, phản đối trong cái cơ
thể mỏi mòn sinh lực của bà sẽ dịu xuống, và muỗng nước mắm sẽ đem lại cho bà
sự khỏe khoắn để bà ngủ một giấc thật ngon và ngày mai bà sẽ tiếp tục sinh hoạt
lại như cũ dưới mái chủa này.
– Nước mắm ! Muỗng nước mắm !
Ni cô hoàn toàn quên mất cái đời
sống hiện tại ở trong chùa, quên cả mấy mươi năm tu hành khổ hạnh. Bà rơi trong
một ý thức mù mờ chỉ có hình bóng muỗng nước mắm bằng sứ trắng chứa một thứ
nước vàng và trong suốt như nước trà. Kê miệng mà nếm thử thì biết. Ni cô Diệu
Tâm co rúm lại, thở hổn hển. Ba tiếng muỗng nước mắm như ba nhát búa đập vào
đầu óc bà làm bà lảo đảo.
Ngoài hậu liêu, hình như trời đã
chiều. Mùi thuốc bắc sắc trong siêu ngai ngái bay lên làm bà có cảm tưởng mình
sắp nghẹt thở.
Bà phải uống một muỗng nước mắm.
Ngày mai dầu có phải đọc kinh sám hối, bà cũng không màng. Bà tin chắc rằng dầu
đọc kinh cứu khổ cứu nạn với Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tár cũng chưa chắc mầu nhiệm
bằng một muỗng nước mắm. Nước mắm sẽ là một món thuốc tiên làm cho cây khô trổ
bông. Cố gắng lấy hết tàn hơi, bà thều thào gọi chú tiểu kiếm cho bà một muỗng
nước mắm. Tất cả những người có mặt bên giường đều ngạc nhiên lẫn hốt hoảng.
Diệu Tâm lập đi lập lại mấy lần
:
– Mô Phật ! Cho tôi muỗng nước
mắm, tôi uống vào sẽ hết bịnh liền.
Tiếng kêu gọi như một lời van
vỉ, thê thảm. Hai tay Diệu Tâm chìa ra tuyệt vọng. Chú tiểu bưng đến gần tách
trà ướp sen kề gần miệng. Ni cô khép chặt môi, lắc đầu phản đối:
– Tôi chỉ cần uống một chút nước
mắm cho mặn môi.
Nói xong ni cô dìm hồn vào trong
cơn đồng thiếp hai cánh tay còn xòe ra quờ quạng van xin.
Cô em họ bước ra trai phòng thỉ
thầm :
– Rõ là ma đưa lối, quỉ dẫn
đường. Hồi nào tới giò chỉ ăn chay lạt, đến lúc sắp chết lại đòi uống nước mắm.
Tôi nhất định chống lại lời ma quỉ xúi biểu, xui khiến chỉ phạm trai giới. Thà
để cho chỉ chết mà không mang tội với Trời Phật và không uổng công tu khổ hạnh
hai mươi mấy năm nay.
Nói đoạn bà xuống trú phòng ngồi
nói chuyện áp phe với cô cháu dâu, hoặc những thành quả bà đã thu đoạt được kể
từ ngày bà bước chân vào đời. Giọng bà oang oang uốn éo và những tràng cười nói
xôn xao vọng lên trên chánh điện. Ông yết ma với đôi mắt nhắm lại và nét mật
phẳng phiu dễ dãi thường nhật nhuốm một chút lo âu. Không khí nặng nề trùm
xuống, nghẹt thở. Tiếng hét từ trai phòng vang lên. Ông lẹ chân tông cửa vào
vừa lúc chú tiểu định bước ra, vẻ mặt còn hốt hoảng. Tất cả đứng im lặng quanh
giường chờ đợi phút nghiêm trọng của ni cô trong khi cô đang vật vã từng đợt
với tử thần. Tiếng nói bà vụt sang sảng như lúc còn ở trên sân khấu. Giọng nói
trong trẻo tỉnh táo, nhưng đôi mắt bà vẫn nhắm nghiền :
– Tôi mới biết thương mình mấy
năm mình khổ công theo đuổi tôi, mình đặt tuồng hát cho tôi hát.
– Con ráng học cho đỗ đạt làm
quan nghe con cưng của má.
– Tôi chỉ thích sắm vai Ðoàn
Hồng Ngọc hơn làm Phàn Lê Huê. Mình thích tôi diễn vai nào nhất?
– Bớ này Tiét Giao ! Ô này bạc
tình lang ! Mặt chàng đẹp trai mà làm chi ? Lời chàng ngọt ngào mà làm chi ? Cổ
thiếp ngày nay mất ngọc, thân thiếp bơ vơ.
Cả một quá khứ trôi nhanh lên ký
ức bà rõ rệt và nhanh như một đoạn phim quay hết tốc lực của nó. Bà độc thoại
từ quãng đời sân khấu đến quãng đời làm vợ ông phú hộ Thọ. Giọng bà sang sảng
vụt dừng lại và dưới ánh đèn hiu hắt, ni cô mở trừng trừng đôi mắt trắng nhợt
như cố thu nhận hình ảnh sau cùng của đời sống và ni cô quờ quạng hai bàn tay
trơ xương với lời van vỉ đứt nối :
– Hãy cứu tôi, cho tôi uống một
muỗng nước mắm thôi.
Cô cháu dâu nhìn bà em họ :
– Mợ ơi ! Mợ nhờ su sãi đọc kinh
trừ tà nghen. Cần nhứt là canh giữ đừng cho ai đem nước mắm lại.
Bà em họ tức mình :
– Ðể tôi đi đọc kinh cứu khổ.
Hồi xưa Phật Thích Ca gần đắc đạo thì ma vương tới phá. Còn cái chị này sắp về
Tây Phương tới nơi mà cũng chưa yên thân.
NGUYỄN THỊ THỤY VŨ
No comments:
Post a Comment