CÀ PHÊ
XƯA
Bạn đã uống cà phê nhiều, bạn biết
muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó. Cà phê loãng nước nhưng đậm mùi
thơm, cà phê mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là
đã đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác
chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong
ngay. Bạn muốn có vị rhum, thì rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ,
cứ bỏ chút bretain vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm gì à? Chà, khó quá đi,
nói làm sao cho chính xác đây! Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như
uống coca thì phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh
đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn
răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn
bạn nhậu thì nằng nặc đòi uống chay không đá cho giống khác người, cho đẳng
cấp. Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm nhận lấy.
Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc;
bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa
điếu và rít đỏ đầu), Ruby hay Basto xanh mới đã đời, thú vị phải không? Bạn đã
có đủ những gì bạn cần, sao lại cứ thích đi uống cà phê tiệm? Tôi không trách
bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà
phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và
cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì
mời bạn cùng tôi trở lại không khí cà phê Sài Gòn những năm cuối 1960 và đầu
1970.
Sài Gòn những năm giữa thập niên
1960 đến đầu thập niên 1970 tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh.
Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi
nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn
mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa.
Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được
nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm
lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời
thượng. Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn
vinh và náo nhiệt lắm. Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên; hai
con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành
phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Cứ như thế, cái xe cọc
cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia
Định.
Những ngày này, tôi là khách
thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường
Hai Bà Trưng. Quán nằm
ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có
một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích
nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng
không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn
xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng
nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời
cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi
chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.
Chủ quán ở đây là một người đặc
biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà phê chỉ như một
cách tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ
thú. Ông hãnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là
khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó. Cà phê được bưng tới, ông chủ
sẽ ngồi đâu đó quan sát và sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường, khuấy
đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như vậy
mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương.
Trong lãnh vực kinh doanh quán cà
phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ
sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn
khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành
công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, nhưng dù từ đâu họ đều có điểm
giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông”, “bà” nào cũng
tha tập cours quằn tay, cộng thêm các tập san Sử địa, Bách khoa, Văn và vân
vân...
Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương,
phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may áo
dài Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập,
cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ
rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có
thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó
trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả. Từ
ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cửa sổ lúc
nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại. Quán
hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để
một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá;
một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu
tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả,
vừa như lãng mạng phô bày vừa như thẹn thùng, che giấu.
Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực
ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng,
thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra
những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại. Hồi
đó nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp
nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà phê Hồng đã
tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến
quán - những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi
thì không là trí thức)- đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát
của Khánh Ly. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một
không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với
các tác giả mà ở Cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới
xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được
coi là dấn thân, tiến bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo
nước ngoài. Quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người
nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó. Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung,
không khuynh quốc khuynh thành gì, nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ
làm xốn xang lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít
nói, ít cười, trừ cô chị. Những năm 1980, Cà-phê Hồng không còn, tôi đã thường
đứng lại rất lâu, nhìn vào chốn xưa và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ
ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Còn chị em cô Hồng: những nhỏ nhẹ tiểu thư,
những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào?
Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa
muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận
lợi to lớn về tâm lý, cùng với những tên tuổi đã giúp cho Đại Học Vạn Hạnh được
nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín, vừa như một tập hợp của những thành
phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại Học Vạn
Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó xéo về phía chợ Trương Minh Giảng.
Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất
vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan
trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ
nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên
báo chí Sài Gòn ngồi đồng từ sáng đến tối để... làm thơ. Nhưng đông hơn cả, ấm
áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ
tan trường và chờ nhau. Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng.
Nắng Mới nay không còn. Những con người cũ tứ tán muôn phương.
Có một quán cà phê thân quen nữa
không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu
đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ
thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những
ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm
lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm mà mở cửa ra là có thể nghe người bên trái
nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được
với người đối diện bên kia đường. Quán chị Chi độ chín mười thước vuông, chỉ đủ
chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Quán không có nhạc, không trưng bày trang trí
gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ
khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn
tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm
nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ
nhỏ: “Hôm qua con đã đi học rồi mà”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng
hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo, mà hoàn toàn do thân hữu truyền
miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến
trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn
sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế
công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân
tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối. Mỗi bộ ấm có kèm theo những
chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho hốp
nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: độc ẩm, song ẩm và
quần ẩm, nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong
sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bự. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh -
loại bánh đặc biệt của chị Chi- nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm lừng. Nhắp một
ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất, trông cũng có vẻ
phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm. Quán chị Chi giờ đã biến tướng
ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em
đã từng ngồi quán chị bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên
cũ.
Những năm cuối thập niên 60 Sài
Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn,
có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất
đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá,
Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng... Tuy nhiên, ở một
con đường nhỏ - Hình như là Đào Duy Từ - gần sân vận động Thống Nhất bây giờ,
có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này, nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em
cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giã thác Cam Ly, hồ Than Thở để
về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra. Trường kinh
doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh
viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên,
cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và
quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những
cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt
về Sài Gòn: Những giò lan, nhưng giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo
cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được
cưa từ những gốc cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La
mang sắc thái rất ... Đa La. Ngày khai trương, Đa La chuẩn bị một chương trình
văn nghệ hết sức rôm rả, với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương,
Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà... Đa La đông vui, chứng kiến sự nở hoa và tàn úa
của nhiều mối tình. Nhưng Đa La vắng dần những người khách cũ và đóng cửa lúc
nào tôi không nhớ.
Cà
phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là
quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc
thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế
ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ
số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn
cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì;
có lẽ cả thời sự, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một
chỗ như vậy là xa lạ với dân ngoại đạo cà phê. Nhưng Hân là một nơi hết sức
đáng yêu, đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như
bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Anton Chekov. Về sau, đối diện với
Hân có thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô
chị và được nhiều chàng trồng cây si. Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững
chạc, một trẻ trung sinh động, đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi
nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm
Súc ngay góc Hồng Thập Tự - Cường Để còn nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đình
Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm “lúc lắc” trong một con
hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi lên căn gác gỗ vừa run
khi được mấy chàng mời cơm.
Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà
thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ
trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào
muốn có chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò
Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây
đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp. Cũng
đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng.
Rồi còn cà phê hàng me Nguyễn Du, cũng Beatles, cũng Elvis Presley như ai ; và
cả pha chút Adamo quyến rũ. Giá ở đây thật bình dân nhưng thường xuyên chứng
kiến những pha so găng giữa học sinh hai trường nghề Cao Thắng và Nguyễn Trường
Tộ.
Chán cà phê thì đi ăn nghêu sò,
bò bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ
Tân Định. Phá lấu đã có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền.
Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương (nay là Bạch Đằng Lê Lợi). Quán
Mù U, hẻm Võ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngã tư Bảy Hiền dành cho
những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa
tường Nguyễn Trung Ngạn gần dòng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Cháo Lú ở
chợ Thị Nghè của một tay hoạ sĩ tên Vị Ý. Cao cấp hơn có La Pagode (đổi
thành Hương Lan trước khi giải thể), Brodard,
Givral. Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi... cả ngày xin
mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính nam. Vào
Casino Sài Gòn có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy
tôi đã quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của SV, cả nghèo
lẫn giàu. Cuộc sống SV cứ thế mà trôi đi trong nhịp sống Sài Gòn. Nghèo nhưng
vui và mơ mộng. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái Mơ.
Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thi
thoảng lại pha thêm chút Tội ác Hình phạt, Zara đã nói như thế! Che Guervara,
Garcia Lorca. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh
xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh,
tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng
hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở cà phê
Hồng, Thu Hương, hay đâu đó ở quê nhà.
Lương Thái Sỹ
No comments:
Post a Comment