Thursday, May 29, 2025

Ngắm Trăng - Vườn Thơ Mới Xướng Họa

 THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 171_VƯỜN THƠ MỚI

 


 












Xướng:

Ngắm trăng

Ngoài hiên vắng lặng, ngắm trăng tà,
Cảnh vật lờ mờ chẳng thấy xa.
Lấp loáng mặt hồ chia dãi lụa
Lăn tăn con sóng rải ngân hà.
Gió lay rặng trúc cành nghiêng ngã
Sương phủ hàng cây sắc nhạt nhòa.
Dăm tiếng chuông chùa đâu vẳng lại,
Bao điều vọng tưởng chợt phôi pha…
Minh Tâm

 

Họa 1:

Về nguồn

Nhớ cội mây chiều hướng nắng tà
Chim rừng sải cánh giữa trời xa
Quê nhà chốn cũ muôn vàn lối
Viễn xứ ngàn khơi một hải hà
Nỗi mẹ lòng đau dằn chẳng khóc
Niềm riêng lệ nhỏ khép khôn nhòa
Bao lần trở lại thăm làng cũ
Mấy bận chưa tròn…Đã tuyết pha!
Tâm Quã

 

Họa 2:


Đường trần 
Nắng đổ chiều nghiêng bóng xế tà
Đường xưa lối cũ có đâu xa
Đoạn trường ảo ảnh ngày ly biệt
Mê muội trần gian biển ái hà
Lơ lửng mơ hồ  đời viễn xứ
Đơn sơ mộc mạc khó phai nhòa
Đường trần đi hết bao ngày tháng
Bóng nắng chiều xuyên lá chiếu pha
HLO

Ái愛河

Ái: Thương yêu, ưa thích.

 Hà: Dòng sông.

Ái hà là dòng sông ái tình của nam nữ.

Tình yêu giữa nam và nữ khiến con người si mê nên cứ mãi lặn hụp trong sông ái biển tình.

Cho nên, ái hà cũng là sông mê biển khổ.

 

Bài Thi trong kinh Phật có câu::

 

Ái hà thiên xích lãng,

Khổ hải vạn trùng ba,

苦海 萬重

 

Dịch nghĩa:

 

Sông ái ngàn thước rộng,

Biển khổ muôn lớp sóng,

 

(Nguồn: Cao đài tự điển)

 

Họa 3:

 

Dòng đời

Chí nguyện tu tâm diệt ý tà
Mọi điều hung ác quyết rời xa

Vô ngôn, không nói tâm trời biển
Bất mục, chẳng nhìn bụng hải hà
Bất hạnh dòng đời lòng nghiệt ngã
Nổi trôi cuộc sống dạ phai nhoà
Vô ưu đón nhận thuyền nhân quả
Nghiệp chướng bao đời ắt bất pha

THT

Vô ưu 無憂: không lo

bất pha : bằng phẳng

 

Họa 4:

 

Chiều quê

Chiều xuống thôn quê lúc nắng tà
Cơn mưa ụp xuống khó nhìn xa
Phất phơ cành lá nơi hàng trúc
Giọt nước lung lay lá bạc hà
Cảnh vật ru người vào giấc mộng
Quê hương giao cảm chẳng phai nhòa
Bao năm chinh chiến người mệt mõi
Đất nước thanh bình lại há pha

PTL

Cây bạc hà (dọc mùng)

 

há pha 下坡: xuống dốc

 

Họa 5:

 

Nhớ người

Cảnh vật đìu hiu dưới nắng tà

Ngồi buồn nhớ bạn ở phương xa

Dòng đời vạn nẻo mơ đoàn tụ

Ngàn dặm sơn khê mộng hải hà

Chinh chiến qua rồi không trở lại

Tàn binh khói lửa hận khôn nhòa

Ta thầm đếm lại bao người vắng

Ngơ ngác bên trời tuyết trắng pha!

Nguyễn Cang

May, 15, 2025

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Người Quay Tơ - Nhất Linh

NGƯỜI QUAY TƠ




 

Tử Nương là một người con gái thôn quê làm nghề chăn tằm, ươm tơ, ở làng Xuân Nghi huyện Hồng Lạc. Nhà nghèo, cha mẹ đã già, làm lụng để nuôi hai thân. Cô trông xinh lắm, người thanh thanh vừa tầm, hai con mắt êm đẹp, mỗi khi trời nắng, gió lạnh, cô ra sân hai tay ngọc xe sợi tơ vàng dệt lụa là cho người trong làng mặc. Một hôm, đương ngồi quay tơ ngoài sân thời có một người học trò nho đi qua, thấy nàng đẹp quá mê đứt đi, ngày nào cũng hai lần trèo qua cái đồi cao, sang để gặp mặt nàng như thế, được gần một năm. Về sau nàng biết mà cảm thương, đem lòng mến. Mùa đông gió trên đồi thổi mạnh, lắm hôm rét quá mà nàng cũng chịu khó ra ngồi quay tơ ngoài sân cho người học trò được trông thấy mặt.

Tin đi mối lại rồi hai người lấy nhau, lúc ấy nàng mới có mười sáu tuổi. Nhà chồng nghèo nàng vẫn giữ nghề cũ nuôi chồng đi học, năm sau đỗ tú tài. Hai vợ chồng hòa hợp thương yêu nhau lắm, lấy nhau được trên hai năm cũng chưa có con cái gì. Một hôm ông tú gọi nàng đến, khóc và dặn rằng:

-Tôi đi phen này chưa biết bao giờ về, mà tôi cũng không mong đâu trở về nữa, không biết có còn thấy được mặt nhau nữa không?

Nàng nói:

-Thôi tôi hiểu cả rồi, việc cửa nhà tôi xin thay, chàng cứ yên tâm mà đi. Việc gì phải khóc lóc thế. Làm tài trai trong nước mà không được như người con gái quê mùa này ư?

Nhưng nàng nói thế rồi nàng cũng khóc theo. Ông tú lên Hà Nội, rồi đi đâu mất, họ đồn là theo bọn văn thân. Mấy tháng sau có mật thám về bắt bà cụ chánh là bà mẹ ông tú và từ đường lên tra hỏi. Lúc mới đến, nàng biết ngay, mặt tái ngắt, song gượng lại ngay mà nói:

-Các bác cứ để yên tự khắc bà tôi và tôi sẽ lên, chúng tôi không việc gì mà phải trốn, không cần phải xích tay, xích chân gì cả.

Các bác kia thấy người con gái nhà quê mà ăn nói cứng cáp, khẳng khái, bằng lòng để cho hai mẹ con được tự do.

Ông tú phải đi đầy Côn Lôn chung thân: nàng lại đem bà Huấn về quê giữ cái guồng tơ khung củi để lấy tiền phụng dưỡng thay chồng. Như thế được bốn năm trời: từ mẹ chồng cho đến người trong họ ai ai cũng cho phép nàng cải giá, nàng nhất định không lấy ai cả, quyết giữ lời thề với người cũ. Ông tú ở Côn Lôn cũng mấy bận viết thư về khuyên nàng, bắt nàng lấy người khác, lời lẽ thảm thiết thương. Nàng xem thư chỉ khóc rồi có khi nào nhớ chồng, lên tít trên đỉnh đồi cao mà đứng trông, có khi về nhà bố mẹ đẻ ra ngồi quay tơ ngoài sân, tưởng tượng đến lúc gặp gỡ, người thư sinh từ mấy năm về trước; những lúc ấy thời nàng lại đẹp lên bội phần, ai cũng thương mà ai cũng yêu, trong làng nhiều người rắp ranh bắn sẻ: một ông giáo có quen ông tú, góa vợ đã lâu cũng đem bụng yêu nàng, cho mỗi sang hỏi. Lúc mối sang, nàng biết ngay, than rằng:

-Ai ngờ bác giáo mà cũng đến như thế ư!

Nói xong mắng mối đuổi ra. Ai cũng giận mà ai cũng mến nàng hơn trước.

Bà cụ Huấn mất, nàng làm ma chay cho chu đáo, rồi lên tỉnh xin phép đi theo chồng. Xin mãi mới được phép, Nhà nước lại cho cả tiền tầu nữa.

Nàng về quê thu xếp, rồi một thân một mình ra đi, đất lạ quê người. Nàng ở bên ấy với chồng khổ sở trong ba năm, sinh được một đứa con trai thời ông tú bảo nàng về:

-Như tôi chiếc thân đầy đoạn đã đành chứ vợ con tôi thời có tội tình gì, nay đã được đứa con để nối dõi thời mợ đem con về nước, cố mà nuôi cho nên người khí khái, chứ ở đây với tôi mãi, thời chỉ thêm phí hai đời người nữa mà thôi. Còn tôi… tôi cũng không định sống lâu đâu, xin đừng tơ tưởng đến tôi nữa!

Nói xong, nắm tay vợ khóc mà từ biệt.

Hôm nghe tin nàng đem con về, cả làng Xuân Nghi ai ai cũng rủ nhau ra quán đón mừng. Lúc nàng bế con ở trên xe xuống hai con mắt ngơ ngẩn đưa nhìn khắp hết người làng, trông nàng có cái vẻ thần tiên: nàng có vẻ cảm động quá ứa nước mắt mà khóc, người làng cũng nhiều người khóc theo.

Nàng thấy ai cũng có bụng kính mến, nên vui lòng mà làm ăn, tậu được cái nhà con ở chân đồi ngày ngày đi buôn hàng tấm. Một hôm nàng đang ngồi chơi với con thời có giấy về báo tin rằng ông tú tự tử mất đã được hơn một tháng rồi. Nàng ôm con vào lòng rồi ngã xuống ngất người đi. Mấy ngày hôm sau mới nhận được bức thư ông tú gởi về từ biệt.

Nàng cũng khuây dần: có lẽ nàng nghĩ mình đã có con cũng đủ, và một đằng sống một đằng chết, sống mà cũng như chết, thời thà chết còn hơn, linh hồn mới có thể về cùng vợ cùng con được.

Năm sau những người phải tội đi đầy chung thân với ông tú được tha cả. Nàng cũng biết tin ấy, thế có ai oán không? Đứa con nàng tự nhiên phải bệnh chết, nàng hóa điên từ đấy; bây giờ cứ đi lang thang, hát nghêu ngao, nhưng thường thường nàng hay về nhà bố mẹ đẻ, lấy cái guồng năm xưa ra quay tơ, quay cả ngày mà không biết mỏi, thỉnh thoảng có hát lên mấy câu.

Mới đầu cũng thương hại, song nghĩ cho kỹ thời thế lại hay cho nàng đấy, có lẽ thế mà lại xong, thật đấy nàng là người sung sướng nhất đời còn chúng mình đây không được như nàng phải đầy đọa chung thân.

Ừ! thử nghĩ xem sống mà đeo cái đau khổ suốt đời, cái đau khổ không bao giờ khuây được chỉ có một cách là tự diệt mình mới thoát ly, thời cái điên là chẳng nên ước lắm sao? Nàng không biết mình là khổ thời nàng là người tiên rồi. Ôi! Nhưng bây giờ Tử Nương còn biết gì nữa, nàng có nhớ đến chồng con nàng nữa đâu, ai đã yêu nàng, nàng có nhớ đâu mà nàng còn yêu ai nữa, nàng chỉ ngày ngày thơ thẩn một mình lên tít đỉnh đồi cao mà đứng trông… Nhưng nàng trông ai bây giờ?

Đường trần mới đến nửa chừng,
Mà guồng tơ cũ đã ngừng bánh xưa.

Nhất Linh

Trích tập truyện ngắn “Người quay tơ” (Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1927

 

  

Bên Sông Vàm Cỏ & Chiếc Lá Vàng - Nguyễn Thị Châu

 BẾN SÔNG VÀM CỎ

 














Bến sông liễu rũ đợi chờ

Người đi ngày ấy xa bờ tình yêu

Anh đi cành lá liêu xiêu

Nhìn sông Vàm cỏ hắt hiu một mình

Ngày qua như bóng với hình

Đôi tay ôm lấy mảnh tình trong đêm

Trăng gầy trôi nhẹ êm êm

Gió thôi hờn dỗi, môi thêm ấm nồng

Hôm nay trở lại dòng sông

Nước sông Vàm Cỏ vẫn trong ngày nào

Sóng trôi, sóng vỗ dạt dào

Con đò đưa khách hôm nào? Đi xa

Chiến tranh đã tắt hôm qua

Bóng tình nhân cũ cũng xa mất rồi

Bây giờ còn lại mình tôi

Nhìn sông Vàm Cỏ lệ rơi nhạt nhoà

Bến sông chờ đợi người ta

Dấu chân còn đó người xa mất rồi

Anh ơi! Nơi chốn xa xôi

Dòng sông Vàm Cỏ, bên đời lẻ loi…!!!

 

 28-5-2025

 Nguyễn thị Châu

 CHIẾC LÁ VÀNG

 

Con tim héo úa đã lâu rồi

Mà còn trăn trở lệ đầy vơi

Cánh chim bạt gió ngày xưa đó

Có trở về đây? Đến với tôi

 

Ta lại ru ta khúc ngậm ngùi

Mùa Thu năm ấy lá vàng rơi

Cho nhau ước nguyện vui hò hẹn

Nắng xuyên cành lá rớt bên đồi

 

Nhìn nắng vàng phai, nhớ tới ai?

Cánh chim bạt gió bay lưng trời

Mùa Thu lá đỗ trên triền dốc

Chiếc lá vàng rơi, rơi vẫn rơi

 

Giờ chỉ mình tôi với lá phai

Đêm đêm thao thức với canh dài

Cánh chim bạt gió còn hay mất?

Có nhớ đến tôi? Chiếc lá vàng…!!!

 

 28-5-2025

Nguyễn thị Châu

 

Học Trò Qua Sông - Trà Bình

 

HỌC TRÒ QUA SÔNG




Ngày ba nó cưới vợ nhỏ, ổng ép má nó phải tới dự đám cưới: “Tới đám cưới tao mày phải vui vẻ, có thái độ gì thì đừng có trách tao!”. Vậy đó, ngày ba nó cưới, má nó phải cắn răng chịu đựng nghe theo. Cưới xong ba nó về lấy hết đồ đạc đem đi, lúc đó căn nhà của mấy má con chỉ còn lại bốn bức tường cùng một không gian trống rỗng…

Sau những ngày dông bão, bà Hai, người phụ nữ với cái tên mà người ta hay gọi là “bà chủ vợ ông chủ nhà may nghệ thuật Cà Mau” đã trở thành người lao công quét đường.

Như thường ngày, khi ánh đèn phố bật sáng khắp con đường chùa Bà, là lúc Út Cường cùng cây chổi tre cao hơn đầu, nó ráng vói cán chổi xa hơn để quét cho xong sớm rồi còn qua phụ má nó quét những con đường khác! Năm mới, tết sắp tới, cả thành phố người ta náo nức đi mua sắm, những đứa trẻ trạc tuổi lớp 6 như Út Cường được ba má chúng chiều chuộng đủ thứ! Vậy mà, có đứa còn nũng nịu khó ưa chê thứ này, đòi thứ khác… Út Cường dừng chổi, nó ấm ức khi nghĩ lại cách đối xử của ba nó đối với mấy má con, càng nghĩ nó càng thương má, thương má vì má nó hiền lành nên hay bị ba nó đánh đập, ba đẩy má nó vô cảnh đời một tay nuôi bốn đứa con bằng đồng lương lao công ít ỏi nên má nó phải quảy thêm gánh hàng rong đi bán.

Nghèo không phải là cái tội, quét đường cũng là một công việc như những công việc khác, vậy mà bạn bè cùng lớp có đứa lại khinh rẻ chế giễu nó, nhiều lần Út Cường muốn chết đi để quên hết những cái miệng đời, và mỗi lần như vậy thì nó lại nghĩ tới câu chuyện xưa của ngoại nó nên nó trấn tĩnh lại được.

Ngày trước ông ngoại nó là con trai nhà chủ điền giàu có nhất vùng, bà ngoại là người ở đợ, hai nguời bén duyên thương nhau, khi bị gia đình phát hiện và ngăn cản, ông ngoại đã dẫn bà ngoại bỏ trốn xuống U Minh Hạ, ngày đó U Minh Hạ có rất nhiều cá sấu, cọp, rắn… Mặc kệ sự nguy hiểm, để được sống bên nhau, ngoại đã sống một cuộc sống hết sức bình dị cùng với rau rừng cá sông mà quá đỗi hạnh phúc…

Cứ mỗi lần nghĩ tới ngoại là Út Cường hay cười thầm một mình bởi những câu chuyện về bác Ba Phi mà ngoại kể rất vui, người ta trèo lên cây ớt bị té gãy chân thì cũng lạ, rồi cả chuyện rắn tát cá, cọp xay lúa, heo đi cày… Đang chìm trong những câu chuyện của ngoại thì bỗng hai người đi dạo họ dừng chân nghỉ giải lao, họ kể cho nhau nghe một câu chuyện khác có vẻ huyền bí: “Dòng sông này linh lắm, nghe nói có hai người thợ lặn xuống nước bắt cá, sau khi lên bờ thì cả hai người đều bị câm, nghe người ta đồn rằng dưới lòng sông trước chùa Bà có hang cá bống mú rất lớn…”.

Nghe xong câu chuyện của người đi dạo, Út Cường nhìn ra phía sông, nó cảm thấy lạnh người nên nó vội vác chổi qua chỗ má nó đang quét, nó còn vừa đi vừa niệm “Nam mô A Di Đà Phật”.

Út Cường khuôn mặt lấm lem, một tay nó cầm cán cây chổi vác trên vai, một tay cầm cái bọc đựng ổ bánh mì, nó bước lẹ tới chỗ bà Hai:

– Má ơi! Má nghỉ tay chút, má ăn cái này đi!

Bà Hai hỏi:

– Con lấy đâu ổ bánh mì đó? Má đã nói nhiều lần rồi là không được nhận đồ của người lạ cho mà!

– Không! Ổ bánh này là của cô Bảy nhà ở gần chùa Bà cho con đó!

– Con nói thiệt không?

– Con nói thiệt mà má!

– Vậy con ăn đi, má không đói!

– Má, con biết là má đói bụng rồi mà! Má ăn đi má…

Phố đã về khuya nên trở nên vắng lặng, gió xào xạc lay những chiếc lá rơi xuống vệ đường, ánh đèn làm nghiêng ngả chiếc bóng bà Hai và đứa con trai dáng vẫn liêu xiêu cùng cây chổi tre giữa màn đêm, tiếng chổi tre của họ là những âm thanh quen thuộc ở phường 2.

Gió chướng năm nay thổi mạnh hơn mọi năm, Út Cường có cảm giác bâng quơ bởi không khí những ngày giáp tết, nó nghĩ không biết là gió thổi một vùng trời Cà Mau, thổi trên nóc nhà của mấy má con hay thổi khắp mọi nơi. Nhắm mắt lại ao ước, nó ước cho má luôn được khỏe mạnh và mong ba nó ở hẳn bên nhà dì đừng có về, mỗi lần ba nó về nhà là có chuyện, ba nó luôn vũ phu với má nó! Điều ước thì ước bỏ đó thôi chứ má nó vẫn còn thương ba nó lắm! Chính vì vậy mà chòm xóm người ta nói kiếp trước má nó mắc nợ ổng nên kiếp này cứ nhẫn nhịn hoài.

Mỗi năm, cội mai già trước sân đều trổ bông sớm, tuy vậy, trong ngôi nhà của mấy má con bà Hai vẫn đầy ắp không khí tết! Bà Hai đứng nhìn bốn đứa con loay hoay mặc thử mấy bộ quần áo cũ mà người ta cho. Mỗi khi vui hoặc buồn bà Hai thường ca vài câu vọng cổ hơi thiệt dài mà không cảm thấy mệt. Thấy vậy, Út Cường hỏi:

– Má ca hay giữ heng! Mà chèng ơi, sao ngày xưa má không đi theo đoàn cải lương?
Bà Hai kể:

– Ngày đó ngoại không muốn má và các cô cậu theo gánh hát, ngoại nói cái nghề đó lênh đênh, tình duyên thì lận đận lắm…

Nói xong khuôn mặt bà Hai buồn thẳm, có lẽ bà nghĩ bà không theo gánh hát thì cũng vẫn lận đận chuyện tình duyên đó thôi… Trầm tư một lát, bà Hai xuống góc bếp lấy mấy xấp lá ra lau để chuẩn bị gói nồi bánh tét, thỉnh thoảng bà lại cất lên một đoạn vọng cổ bài Đêm khuya trông chồng: “Trồng trầu thì phải khai mương, làm trai hai vợ sao anh thương không đồng…”.

Thời gian đã phủ bạc trên mái đầu bà Hai! Thời gian không chờ đợi ai bao giờ! Người lớn trở thành người già, trẻ con rồi ai cũng phải lớn lên và Út Cường đã vô học ngành sư phạm. Với bà Hai, niềm vui lớn nhất là thấy các con mình mạnh giỏi. Bà hay nhắc các con của bà chính là phép màu ban cho bà nghị lực để tồn tại. Phận đàn bà có mấy ai lấy chồng mà đều được trọn vẹn đâu! Phận gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu, mỗi người đều có một số phận riêng…

Năm tháng qua đi, giờ ở thành phố này đã đổi thay nhiều thứ, chỉ duy nhất con đường chùa Bà là không mấy khác. Chiều nay, có ai nhận ra người thầy đang bước lang thang trên con đường chùa Bà chính là cậu bé quét rác ngày trước!

Mỗi lần về thăm quê, thầy Cường hay trở lại con đường cũ để kiếm tìm lại miền ký ức, được ngắm nhìn vùng trời bình yên quê mình đổ những vạt nắng vàng xuống dòng sông trước chùa, thỉnh thoảng có những con chuồn chuồn nghỉ mệt đậu trên khóm cỏ mọc dưới bờ kè.

Khắp cả vùng trời Cà Mau gió chướng vẫn đang thổi, lá cây vẫn đang rơi xuống vệ đường, tiết trời những ngày giáp tết thật đẹp, sắc xuân cũng đang tô điểm trên những nhành mai, bông cúc, và có vài người xa quê lâu năm đang hỏi thăm địa chỉ người thân khi trở về quê cũ…

Tất cả đã và đang là những gam màu vẽ lên bức tranh cuộc sống của người thầy xa xứ, người lái đò vẫn thầm lặng từng ngày đưa các trò của mình qua sông.

Trà Bình 

304Đen – llttm – Văn Việt

 

Monday, May 26, 2025

Có Còn Không Cơn Mưa Hạ - Thuyên Huy

 Có Còn Không Cơn Mưa Hạ




Căn Nhà Mộng Mị - Nguyễn Đạt

 

CĂN NHÀ MỘNG MỊ

Bạn bè từng cho rằng, Đăng có những ngày tháng hoang vu thơ mộng tại Đà Lạt. “Tôi nào chọn để sống như vậy; hoàn cảnh nó đưa đẩy để tôi sống như vậy mà thôi.” Đăng nói thế, nhưng tôi cho rằng hoàn cảnh cũng do anh tạo ra. Hoàn cảnh gì bức bách đến nỗi anh đột ngột rời Sài Gòn lên Đà Lạt, trước ngày vào quân đội theo lệnh gọi nhập ngũ của Trường Bộ Binh Thủ Đức.

Cái bị to xù của Đăng chỉ chứa hai bộ quần áo, hai cái áo ấm; thêm quyển sách duy nhất, Le Grand Meaulnes của Alain-Fournier. Trong ví ở túi quần có thẻ căn cước, thẻ sinh viên đã hết hạn từ lâu, và tờ giấy lệnh gọi nhập ngũ. Trong túi áo có cái ống vố hiệu Ropp, ai đó tặng anh đã quá lâu, anh không nhớ rõ. Và, dĩ nhiên trong túi áo hoặc túi quần, số tiền anh có không nhiều hơn một tờ giấy bạc năm trăm đồng.

Năm trăm đồng, nhuận bút được xem là cao, cho bài thơ đầu tiên của anh đăng trên tuần báo Nghệ Thuật, tờ báo văn nghệ uy tín số một ở Sài Gòn lúc đó. Vậy mà anh lại hỏi người đăng cho anh bài thơ và đề nghị trả nhuận bút cao như thế: Chỉ có năm trăm hả anh? Người ấy, nhà thơ / nhà văn Viên Linh hẳn nhiên rất bực. Viên Linh bảo anh chàng Đăng làm thơ hay thì hay thật, nhưng có vẻ khinh bạc. Anh nghe nhận xét đó, nói với một người bạn: “Tôi nào biết nhuận bút như thế là cao hay thấp; chỉ vì thấy số tiền không đủ để lên Đà Lạt sống ít ngày trước khi nhập ngũ, nên tôi mới hỏi ông anh như vậy.” Anh gọi nhà thơ / nhà văn tài hoa, và nhà làm báo văn nghệ số một ở Sài Gòn lúc ấy, Viên Linh, là Ông Anh Thi Sĩ. Tôi biết Đăng tôn quý ông anh thi sĩ Viên Linh rất mực. Với Đăng, thi sĩ là số một, là thượng tầng của cõi đời này.

oOo

Ở Đà Lạt dài lâu, nhưng tôi không biết những ngày tháng hoang vu thơ mộng của Đăng tại đây thế nào, như bạn bè của chúng tôi đã nói. Tôi chỉ thảng hoặc gặp anh; thường là gặp trong quán Cà-phê Tùng, cái quán chuyên nghiệp cà-phê lâu đời nhất ở Khu Hòa Bình, trung tâm của thành phố cao nguyên.

 

Đăng có lối phục sức ưa nhìn; nhiều bạn còn gọi anh là người theo chủ nghĩa hình thức. Có lần tôi ngắm cái áo thun trên người anh, cái cổ áo rất đẹp, nhớ mang máng, hoặc có thể tôi đã tưởng tượng, rất giống cái áo của Modigliani, nhà danh họa Ý đẹp trai và bụi đời. Anh liền kéo ngược cái áo khoác ngoài lên cao, để hở phần dưới của áo thun; nó đã thủng rách lỗ chỗ khắp cả, từng bị chuột cắn muốn nát hết rồi cũng nên. “Tôi vẫn mua đồ cũ ở chợ Đà Lạt; cái áo thun mặc ở trong thì chỉ cần mỗi chỗ cổ áo còn nguyên vẹn là được,” anh nói.

Tôi hỏi thăm chỗ Đăng ở, anh bảo chỉ cần một chỗ ngủ trong đêm, bất kể chỗ nào. Anh thường ghé nhà một người bạn, Nguyễn Quang Huy, người bạn có tâm hồn trong sạch nhất trần gian, anh nói vậy. Mỗi lần vào nhà Huy, anh tìm lối trèo lên căn gác gỗ, ngủ tại đó tới mờ sáng lại tìm lối xuống; cả nhà Huy không ai biết vụ việc thường ngày diễn ra cả tháng như vậy, dĩ nhiên trừ Huy.

Một lần gặp sau, Đăng cho biết đang trú ngụ trong căn nhà tồi tàn rách nát có một không hai tại thành phố, phía sau chùa Linh Sơn, phía trên thung lũng trồng rau của nông dân Đà Lạt.

“Anh thuê trọ ở đấy hả?”

“Tôi cũng có ý đó, nhưng người cho tôi trú ngụ bảo tôi không cần phải thắc mắc cái chuyện nhỏ nhặt ấy. Khi nào kẹt chỗ ngủ thì vào căn nhà này mà ngủ. Cứ như vậy, tôi tới căn nhà này như căn nhà của mình. Ở căn nhà tồi tàn rách nát nhất thành phố mà tôi thấy vô cùng thoải mái; thấy có vẻ một nơi chốn huyền ảo, hoang đường nữa là đằng khác. Một nơi chốn như trong Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh. Gọi nó là căn nhà mộng mị cũng được, như chính chủ nhân căn nhà này gọi vậy.”

Tôi đã gặp nữ chủ nhân căn nhà này, tại quán cà-phê Tùng. Chị ấy có lẽ còn trẻ hơn tôi năm, bảy tuổi, nhỏ hơn Đăng cũng chừng bấy nhiêu. Tôi quen gọi là chị tất cả phụ nữ tuổi tác như vậy; hoặc nhiều hơn hay kém hơn cũng thế. Chị hỏi tôi lâu nay có gặp anh không.

“Thế anh ấy không về căn nhà ở thung lũng trồng rau cải bắp, phía sau chùa Linh Sơn?”

Chị lắc đầu nhẹ, lắc đầu liên tục; tóc xoay cũng nhẹ theo liên tục, phủ lòa xòa trước mặt. Khuôn mặt đẹp, sắc sảo và hơi lạnh lùng; nói vắn tắt là khuôn mặt sắc lạnh, và như vậy tôi thấy càng khêu gợi nhục cảm. Tôi dù ngạc nhiên nhưng không hỏi, sao chị biết tôi quen Đăng? Chị ghé cà-phê Tùng có lẽ chỉ để hỏi tin tức về Đăng, rồi rời quán ngay sau đó. Nghe chị hỏi vài tiếng ngắn gọn, tôi không thể nhận biết chị là người vùng miền nào qua giọng nói. Có lẽ chị là người xứ Huế, tôi có cảm giác như vậy.

Chùa Linh Sơn – Đà Lạt

oOo

Tôi gặp lại Đăng sau cái vụ gọi là tổng-tiến-công-và-nổi-dậy của Việt Cộng tại thành phố Đà Lạt.

“Tôi chả biết cô ấy có cảm xúc gì không. Tôi hôn cô ấy hai lần, cả hai lần cô ấy chỉ im lặng. Vậy thôi. Căn nhà như thể bỏ hoang, nếu căn cứ vào những đồ vật chẳng đáng kể gì trong đó. Có cái giường sắt kiểu nhà binh, hay nó đúng là giường sắt nhà binh; nệm đã cũ rách, tuy nhiên sạch sẽ.”

“Cái giường sắt nhà binh là loại gường đơn, hai người ngủ chung trên cái giường ấy?”

“Chả ngủ chung ngủ chạ gì hết. Lúc nào về căn nhà để ngủ, tôi cũng thấy cô ấy ngồi trên cái ghế đẩu duy nhất, cặm cụi viết lách gì đấy trong cuốn sổ dày cui, khổ nhỏ. Cuốn sổ mở đặt trên một bên đùi, nghĩa là để hở nguyên một bên đùi, cô ấy cúi đầu xuống viết và viết. Thỉnh thoảng cô ấy ngước đầu lên, suy nghĩ, rồi lại cúi đầu xuống viết tiếp. Cứ như vậy, có lẽ suốt đêm. Nhìn dáng cô ấy, với hai chân để song song, đầu cúi tóc xõa, tôi thấy rất đẹp, muốn vẽ bức tranh như vậy. Nhưng lúc ấy tôi chả có giấy bút để vẽ. Cô ấy bảo tôi buồn ngủ cứ đi ngủ, cái giường vẫn chỉ để không mà thôi. Tôi vốn dĩ ít ngủ, nằm xuống giường đọc mãi hoài quyển sách duy nhất tôi luôn mang đi theo bất cứ nơi nào. Có lẽ cô ấy từng đọc Le Grand Meaulnes rồi, nghĩa là cô ấy có học thức, đọc được cả Pháp ngữ. Tôi hỏi cô ấy đọc quyển truyện này chưa, cô ấy gật đầu, bảo: bây giờ tôi hết thời để ưa thích cuốn truyện này nữa.”

“Bạn biết được gì nhiều hơn, sau thời gian ở chung với chị ấy?”

“Tôi nhớ câu nói của cô ấy, khi bằng lòng cho tôi vào ở chung trong căn nhà: chấp nhận người khác vào ở chung nhà, không phải là để người khác soi mói công việc riêng tư của mình. Nên tôi phải tôn trọng việc riêng của cô ấy, không vi phạm điều lệ mặc nhiên đó. Có lúc tôi hỏi tên cô ấy, cô ấy hỏi lại tôi: có quan trọng lắm không, khi anh biết tên tôi?”

Tôi đành im lặng.

“Bạn có khi nào nghĩ chị ấy là Việt Cộng?”

“Có chứ. Biết cô ấy là Việt Cộng thứ thiệt từ khuya rồi.”

oOo

Đấy cũng là lần cuối cùng tôi gặp Đăng tại Đà Lạt. Sau đó một thời gian, tôi biết tin tức về anh qua người bạn từ Huế vào thành phố cao nguyên. Người bạn cho biết, Đăng thuộc diện bất phục tùng lệnh gọi nhập ngũ khóa 2/69 của Trường Bộ Binh Thủ Đức, bị bắt rồi đưa ra Vùng Một Chiến Thuật. Sau đó Đăng tình nguyện gia nhập một thứ lính thuộc dạng biệt kích ngoài đó, là Đại Đội Hắc Báo. Người bạn lắc đầu:

“Ông có biết chuyện gì đã xảy ra với Đăng không? Anh chàng trở thành kẻ liều lĩnh vì thất tình, chứ tình nguyện đi thứ lính dữ dằn như Đại Đội Hắc Báo chỉ dành cho kẻ chán đời, không còn sợ chết mà thôi. Tôi từng nghe anh chàng kể câu chuyện tình của mình, xảy ra trong căn nhà mộng mị tại Đà Lạt.”

“Tôi có gặp cô ta, cũng như từng biết căn nhà mộng mị ấy. Nhưng tôi nghĩ anh ta không thất tình vì yêu chủ nhân căn nhà ấy đâu.”

“Chính Đăng kể tôi nghe, cô ấy đã yêu một người bạn của Đăng, là tác giả của cuốn nhật ký có tên là Nhật Ký Người Chứng ấy mà.”

Tôi giật mình, tác giả Nhật Ký Người Chứng cũng là bạn của tôi, Thái Lãng. Và tôi nhớ lại, sau ngày Ba Mươi tháng Tư đen, nữ chủ nhân căn nhà mộng mị trở thành cán bộ, phụ trách cái gọi là ủy ban mặt trận tổ quốc tại thành phố Đà Lạt; Thái Lãng đại diện giới văn nghệ sĩ của Đà Lạt, ra Hà Nội họp đại hội trung ương gì đó.

Đăng bây giờ ở đâu, tôi không biết. Cô gái Việt Cộng, chủ nhân căn nhà mộng mị hẳn nhiên đã nghỉ hưu nếu còn tại thế, và Thái Lãng đã qua đời tại Hoa Kỳ từ mấy năm rồi. Tất cả đều biến mất cùng căn nhà mộng mị trên thung lũng cải bắp, phía sau chùa Linh Sơn – Đà Lạt.

Nguyễn Đạt

Nguồn: Da Màu

 từ trang DĐQGHCUC

 

Mưa Buồn & Thay Lời Tượng Đá - Nguyễn Thị Châu

 MƯA BUỒN

 














Ta chợt thấy ngoài hiên mưa bật khóc

Tiếng bi ai nức nở nhớ thương sầu

Nhìn cuộc đời, trôi mãi sẽ về đâu?

Mưa tí tách giọt dài, thêm giọt ngắn

 

Mênh mông quá, gió lùa qua song cửa

Làm mây bay che khuất nẻo chân trời

Hạt mưa buồn làm ướt cỏi lòng tôi

Tôi đã khóc cho cuộc tình dang dở

 

Tôi đã  khóc thật nhiều, anh có biết?

Như ngoài kia, mưa đang khóc nhớ ai?

Khép tâm tư, sao vẫn thấy u hoài

Mưa tí tách, thay lời tôi muốn nói

 

Đau đớn nào bằng, người đi kẻ ở !

Tóc rối bay nhè nhẹ quấn khăn sô

Đã bao năm cuộc sống không bến bờ

Nghe tắt nghẹn mỗi lần nhìn mưa đổ …!!

 

21-5-2025

Nguyễn thị Châu

 

THAY LỜI TƯỢNG ĐÁ

 

Tôi vẫn ngồi đây với các anh

Sương rơi lạnh lẽo suốt năm canh

Thương tiếc các anh đang nằm xuống

Đời trai chinh chiến, biết sao, đành

 

Mưa rơi lạnh ướt, chỗ anh nằm

Nghĩa trang buồn lắm nhớ xa xăm

Lá rơi, rơi mãi bên đồng vắng

Mơ ước nay còn trong bóng đêm

 

Tuy rằng tượng đá, vẫn có hồn

Vẫn còn quanh quẩn lúc hoàng hôn

Ủi an, an ủi hồn tử sĩ

 Các anh không còn thấy cô đơn

 

Tiếc thương, thương tiếc các anh ơi!

Tôi vẫn còn đây ở trên đời

Cùng nghe tiếng dế, cây khô đổ

Cùng hát, cùng ca lúc lá rơi

 

Làm thân tượng đá cũng biết yêu

Các anh chiến sĩ, yêu thật nhiều

Dẫu rằng tượng đá không còn nửa

Tôi vẫn ngồi đây với các anh…!!!

 

  21-5-2025

  Nguyễn thị Châu