CĂN NHÀ MỘNG MỊ
Bạn bè từng cho rằng, Đăng có những
ngày tháng hoang vu thơ mộng tại Đà Lạt. “Tôi nào chọn để sống như vậy; hoàn cảnh
nó đưa đẩy để tôi sống như vậy mà thôi.” Đăng nói thế, nhưng tôi cho rằng hoàn
cảnh cũng do anh tạo ra. Hoàn cảnh gì bức bách đến nỗi anh đột ngột rời Sài Gòn
lên Đà Lạt, trước ngày vào quân đội theo lệnh gọi nhập ngũ của Trường Bộ Binh
Thủ Đức.
Cái bị to xù của Đăng chỉ chứa hai bộ
quần áo, hai cái áo ấm; thêm quyển sách duy nhất, Le Grand Meaulnes của
Alain-Fournier. Trong ví ở túi quần có thẻ căn cước, thẻ sinh viên đã hết hạn từ
lâu, và tờ giấy lệnh gọi nhập ngũ. Trong túi áo có cái ống vố hiệu Ropp, ai đó
tặng anh đã quá lâu, anh không nhớ rõ. Và, dĩ nhiên trong túi áo hoặc túi quần,
số tiền anh có không nhiều hơn một tờ giấy bạc năm trăm đồng.
Năm trăm đồng, nhuận bút được xem là
cao, cho bài thơ đầu tiên của anh đăng trên tuần báo Nghệ Thuật, tờ báo văn nghệ
uy tín số một ở Sài Gòn lúc đó. Vậy mà anh lại hỏi người đăng cho anh bài thơ
và đề nghị trả nhuận bút cao như thế: Chỉ có năm trăm hả anh? Người ấy, nhà thơ
/ nhà văn Viên Linh hẳn nhiên rất bực. Viên Linh bảo anh chàng Đăng làm thơ hay
thì hay thật, nhưng có vẻ khinh bạc. Anh nghe nhận xét đó, nói với một người bạn:
“Tôi nào biết nhuận bút như thế là cao hay thấp; chỉ vì thấy số tiền không đủ để
lên Đà Lạt sống ít ngày trước khi nhập ngũ, nên tôi mới hỏi ông anh như vậy.”
Anh gọi nhà thơ / nhà văn tài hoa, và nhà làm báo văn nghệ số một ở Sài Gòn lúc
ấy, Viên Linh, là Ông Anh Thi Sĩ. Tôi biết Đăng tôn quý ông anh thi sĩ Viên
Linh rất mực. Với Đăng, thi sĩ là số một, là thượng tầng của cõi đời này.
oOo
Ở Đà Lạt dài lâu, nhưng tôi không biết
những ngày tháng hoang vu thơ mộng của Đăng tại đây thế nào, như bạn bè của
chúng tôi đã nói. Tôi chỉ thảng hoặc gặp anh; thường là gặp trong quán Cà-phê
Tùng, cái quán chuyên nghiệp cà-phê lâu đời nhất ở Khu Hòa Bình, trung tâm của
thành phố cao nguyên.
Đăng có lối phục sức ưa nhìn; nhiều bạn
còn gọi anh là người theo chủ nghĩa hình thức. Có lần tôi ngắm cái áo thun trên
người anh, cái cổ áo rất đẹp, nhớ mang máng, hoặc có thể tôi đã tưởng tượng, rất
giống cái áo của Modigliani, nhà danh họa Ý đẹp trai và bụi đời. Anh liền kéo
ngược cái áo khoác ngoài lên cao, để hở phần dưới của áo thun; nó đã thủng rách
lỗ chỗ khắp cả, từng bị chuột cắn muốn nát hết rồi cũng nên. “Tôi vẫn mua đồ cũ
ở chợ Đà Lạt; cái áo thun mặc ở trong thì chỉ cần mỗi chỗ cổ áo còn nguyên vẹn
là được,” anh nói.
Tôi hỏi thăm chỗ Đăng ở, anh bảo chỉ
cần một chỗ ngủ trong đêm, bất kể chỗ nào. Anh thường ghé nhà một người bạn,
Nguyễn Quang Huy, người bạn có tâm hồn trong sạch nhất trần gian, anh nói vậy.
Mỗi lần vào nhà Huy, anh tìm lối trèo lên căn gác gỗ, ngủ tại đó tới mờ sáng lại
tìm lối xuống; cả nhà Huy không ai biết vụ việc thường ngày diễn ra cả tháng
như vậy, dĩ nhiên trừ Huy.
Một lần gặp sau, Đăng cho biết đang
trú ngụ trong căn nhà tồi tàn rách nát có một không hai tại thành phố, phía sau
chùa Linh Sơn, phía trên thung lũng trồng rau của nông dân Đà Lạt.
“Anh thuê trọ ở đấy hả?”
“Tôi cũng có ý đó, nhưng người cho
tôi trú ngụ bảo tôi không cần phải thắc mắc cái chuyện nhỏ nhặt ấy. Khi nào kẹt
chỗ ngủ thì vào căn nhà này mà ngủ. Cứ như vậy, tôi tới căn nhà này như căn nhà
của mình. Ở căn nhà tồi tàn rách nát nhất thành phố mà tôi thấy vô cùng thoải
mái; thấy có vẻ một nơi chốn huyền ảo, hoang đường nữa là đằng khác. Một nơi chốn
như trong Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh. Gọi nó là căn nhà mộng mị cũng được,
như chính chủ nhân căn nhà này gọi vậy.”
Tôi đã gặp nữ chủ nhân căn nhà này, tại
quán cà-phê Tùng. Chị ấy có lẽ còn trẻ hơn tôi năm, bảy tuổi, nhỏ hơn Đăng cũng
chừng bấy nhiêu. Tôi quen gọi là chị tất cả phụ nữ tuổi tác như vậy; hoặc nhiều
hơn hay kém hơn cũng thế. Chị hỏi tôi lâu nay có gặp anh không.
“Thế anh ấy không về căn nhà ở thung
lũng trồng rau cải bắp, phía sau chùa Linh Sơn?”
Chị lắc đầu nhẹ, lắc đầu liên tục;
tóc xoay cũng nhẹ theo liên tục, phủ lòa xòa trước mặt. Khuôn mặt đẹp, sắc sảo
và hơi lạnh lùng; nói vắn tắt là khuôn mặt sắc lạnh, và như vậy tôi thấy càng
khêu gợi nhục cảm. Tôi dù ngạc nhiên nhưng không hỏi, sao chị biết tôi quen
Đăng? Chị ghé cà-phê Tùng có lẽ chỉ để hỏi tin tức về Đăng, rồi rời quán ngay
sau đó. Nghe chị hỏi vài tiếng ngắn gọn, tôi không thể nhận biết chị là người
vùng miền nào qua giọng nói. Có lẽ chị là người xứ Huế, tôi có cảm giác như vậy.
Chùa Linh Sơn – Đà Lạt
oOo
Tôi gặp lại Đăng sau cái vụ gọi là tổng-tiến-công-và-nổi-dậy
của Việt Cộng tại thành phố Đà Lạt.
“Tôi chả biết cô ấy có cảm xúc gì
không. Tôi hôn cô ấy hai lần, cả hai lần cô ấy chỉ im lặng. Vậy thôi. Căn nhà
như thể bỏ hoang, nếu căn cứ vào những đồ vật chẳng đáng kể gì trong đó. Có cái
giường sắt kiểu nhà binh, hay nó đúng là giường sắt nhà binh; nệm đã cũ rách,
tuy nhiên sạch sẽ.”
“Cái giường sắt nhà binh là loại gường
đơn, hai người ngủ chung trên cái giường ấy?”
“Chả ngủ chung ngủ chạ gì hết. Lúc
nào về căn nhà để ngủ, tôi cũng thấy cô ấy ngồi trên cái ghế đẩu duy nhất, cặm
cụi viết lách gì đấy trong cuốn sổ dày cui, khổ nhỏ. Cuốn sổ mở đặt trên một
bên đùi, nghĩa là để hở nguyên một bên đùi, cô ấy cúi đầu xuống viết và viết.
Thỉnh thoảng cô ấy ngước đầu lên, suy nghĩ, rồi lại cúi đầu xuống viết tiếp. Cứ
như vậy, có lẽ suốt đêm. Nhìn dáng cô ấy, với hai chân để song song, đầu cúi
tóc xõa, tôi thấy rất đẹp, muốn vẽ bức tranh như vậy. Nhưng lúc ấy tôi chả có
giấy bút để vẽ. Cô ấy bảo tôi buồn ngủ cứ đi ngủ, cái giường vẫn chỉ để không
mà thôi. Tôi vốn dĩ ít ngủ, nằm xuống giường đọc mãi hoài quyển sách duy nhất
tôi luôn mang đi theo bất cứ nơi nào. Có lẽ cô ấy từng đọc Le Grand Meaulnes rồi,
nghĩa là cô ấy có học thức, đọc được cả Pháp ngữ. Tôi hỏi cô ấy đọc quyển truyện
này chưa, cô ấy gật đầu, bảo: bây giờ tôi hết thời để ưa thích cuốn truyện này
nữa.”
“Bạn biết được gì nhiều hơn, sau thời
gian ở chung với chị ấy?”
“Tôi nhớ câu nói của cô ấy, khi bằng
lòng cho tôi vào ở chung trong căn nhà: chấp nhận người khác vào ở chung nhà,
không phải là để người khác soi mói công việc riêng tư của mình. Nên tôi phải
tôn trọng việc riêng của cô ấy, không vi phạm điều lệ mặc nhiên đó. Có lúc tôi
hỏi tên cô ấy, cô ấy hỏi lại tôi: có quan trọng lắm không, khi anh biết tên
tôi?”
Tôi đành im lặng.
“Bạn có khi nào nghĩ chị ấy là Việt Cộng?”
“Có chứ. Biết cô ấy là Việt Cộng thứ
thiệt từ khuya rồi.”
oOo
Đấy cũng là lần cuối cùng tôi gặp
Đăng tại Đà Lạt. Sau đó một thời gian, tôi biết tin tức về anh qua người bạn từ
Huế vào thành phố cao nguyên. Người bạn cho biết, Đăng thuộc diện bất phục tùng
lệnh gọi nhập ngũ khóa 2/69 của Trường Bộ Binh Thủ Đức, bị bắt rồi đưa ra Vùng
Một Chiến Thuật. Sau đó Đăng tình nguyện gia nhập một thứ lính thuộc dạng biệt
kích ngoài đó, là Đại Đội Hắc Báo. Người bạn lắc đầu:
“Ông có biết chuyện gì đã xảy ra với
Đăng không? Anh chàng trở thành kẻ liều lĩnh vì thất tình, chứ tình nguyện đi
thứ lính dữ dằn như Đại Đội Hắc Báo chỉ dành cho kẻ chán đời, không còn sợ chết
mà thôi. Tôi từng nghe anh chàng kể câu chuyện tình của mình, xảy ra trong căn
nhà mộng mị tại Đà Lạt.”
“Tôi có gặp cô ta, cũng như từng biết
căn nhà mộng mị ấy. Nhưng tôi nghĩ anh ta không thất tình vì yêu chủ nhân căn
nhà ấy đâu.”
“Chính Đăng kể tôi nghe, cô ấy đã yêu
một người bạn của Đăng, là tác giả của cuốn nhật ký có tên là Nhật Ký Người Chứng
ấy mà.”
Tôi giật mình, tác giả Nhật Ký Người
Chứng cũng là bạn của tôi, Thái Lãng. Và tôi nhớ lại, sau ngày Ba Mươi tháng Tư
đen, nữ chủ nhân căn nhà mộng mị trở thành cán bộ, phụ trách cái gọi là ủy ban
mặt trận tổ quốc tại thành phố Đà Lạt; Thái Lãng đại diện giới văn nghệ sĩ của
Đà Lạt, ra Hà Nội họp đại hội trung ương gì đó.
Đăng bây giờ ở đâu, tôi không biết.
Cô gái Việt Cộng, chủ nhân căn nhà mộng mị hẳn nhiên đã nghỉ hưu nếu còn tại thế,
và Thái Lãng đã qua đời tại Hoa Kỳ từ mấy năm rồi. Tất cả đều biến mất cùng căn
nhà mộng mị trên thung lũng cải bắp, phía sau chùa Linh Sơn – Đà Lạt.
Nguyễn Đạt
Nguồn: Da Màu
từ trang DĐQGHCUC