HỆ LỤY TỪ MỘT ĐƯỜNG LỐI GIÁO DỤC
Trước năm 1975 ở Miền Nam đề ra ba
nguyên tắc căn bản trong mục đích, tôn chỉ giáo dục là: Nhân bản, Dân tộc và
Khai Phóng. Chính những nguyên tắc nầy đã giữ cho truyền thống dân tộc được bảo
tồn và phát triển vững vàng nhưng không bảo thủ và từng bước theo kịp đà tiến
triển của nhân loại.
Nguyễn Ngọc Luật
Vì vậy ở bậc Trung học, không có một
bộ sách giáo khoa nào do cơ quan giáo dục chính thống biên soạn và phát hành để
thầy và trò dạy và học theo. Giáo viên tự chọn sách giáo khoa để dạy miễn sao
tôn trọng đúng nội dung chương trình giáo dục do Bộ Quốc gia Giáo dục soạn thảo.
Trên thị trường cũng xuất hiện rất nhiều loại sách giáo khoa do các nhà giáo
biên soạn.
Khi được học trong một môi trường
giáo dục như thế chúng ta cảm thấy mọi việc đều bình thường, cho đến sau năm
1975 đất nước thống nhất rồi mới có dịp so sánh với hai đường lối giáo dục
Nam-Bắc mới thấy có nhiều điều rất khác biệt. Cái khác rõ nét nhất là ở Miền Bắc
đã đưa quan điểm về chính trị, chính kiến vào chương trình học nhằm mục đích
tuyên truyền phục vụ cho chế độ, trong khi giáo dục ở Miền Nam thì chỉ tuân thủ
ba tôn chỉ nêu trên mà không bị chi phối bởi áp lực chính trị nào cà.
Với hai đường lối giáo dục khác nhau
nên các học sinh của hai miền cũng được trang bị kiến thức và nhận thức khác
nhau, thế nên hành trang của họ mang vào đời cũng khác nhau.
Chỉ nói riêng về môn Văn, trong khi ở
Miền Nam chúng tôi được học một chương trình Văn học rất thông thoáng và khách
quan, không hề bị quan điểm về chính trị chi phối nên đều chọn lọc những tinh
hoa văn học nước nhà qua các thời kỳ để học. Trong chương trình Văn Học Sử chỉ
nói về văn học cận đại thôi, chương trình học cũng rất công tâm, bình đẳng, tất
cả các tác giả có tác phẩm đóng góp công lao cho nền văn học nước nhà cho dù họ
đang ở bên này hay bên kia chiến tuyến đều được đưa vào chương trình không hề phân
biệt. Vì thế mà chúng tôi đã được học tác phẩm và tìm hiểu về những tác giả
đang phục vụ tại Miền Bắc như Xuân Diệu với Thơ Thơ, Gửi Hương Cho Gió…,
Huy Cận với Lửa Thiêng, Nguyễn Bính với Chân Quê, Lỡ Bước
Sang Ngang, Thế Lữ với Nhớ rừng, Vàng Và Máu, Lưu Trọng
Lư với Tiếng Thu… Những nhà thơ có sự nghiệp muộn hơn như Quang
Dũng, Hoàng Cầm… cũng đều có tác phẩm xuất bản trong Miền Nam để cho công chúng
được tìm hiểu.
Về văn xuôi cũng vậy, những tác giả
đang ở Miền Bắc cũng được đưa vào chương trình giáo khoa như Tô Hoài với Dế
Mèn Phiêu Lưu Ký, Nam Cao với Sống Mòn,Chí Phèo… Nguyễn Công
Hoan với Tắt Lửa Lòng, Bước Đường Cùng… Vũ Trọng Phụng với Số
Đỏ, Ngô Tất Tố với Tắt Đèn… Lược kê một vài tác giả với vài tác
phẩm tiêu biểu như thế để chứng minh nền giáo dục mang tính nhân bản, dân tộc
và khai phóng được thể hiện rất rõ nét trong chương trình học ở Miền Nam. Trong
khi đó môn Ngữ Văn học sinh miền Bắc rất chú trọng văn học thời kỳ chống Pháp,
chống Mỹ, còn các nền văn học khác thì xem nhẹ. Các tác giả sáng tác với mục
đích phục vụ, tuyên truyền cho chế độ thì được vinh danh và đưa vào chương
trình học mặc dù xét về văn chương những tác phẩm đó không có giá trị mấy.
Trong khi những nhà văn, nhà thơ có tư tưởng thoáng đạt sáng tác trên tinh thần
nghệ thuật vị nghệ thuật mà không có tư tưởng tuyên truyền cho chế độ hoặc có
quan niệm, chính kiến khác thì sẽ bị chối bỏ và tác giả sẽ bị liên lụy như nhóm
Nhân Văn Giai Phẩm chẳng hạn. Cái thiếu sót lớn nhất trong chương trình Ngữ Văn
ở miền Bắc (và cả nước sau năm 1975) là chương trình Văn Học Sử cận đại đầu thế
kỷ XX chỉ đưa vào sách giáo khoa những tác giả viết về hiện thực phê phán như
Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trong Phụng, Nguyên Hồng… mà đã cố
tình bỏ qua những nhà văn, bút nhóm không đồng chính kiến khác.
Đầu thế kỷ XX nền văn học quốc ngữ nước
ta rất non trẻ, trong giai đoạn chuyển tiếp từ nền Nho học qua Việt học đã có
những nhà văn có công lớn trong sự phát triển văn học quốc ngữ đó là Trương
Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của đã cho xuất bản tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên dó là
tờ Gia Định Báo năm 1865 tại Sài Gòn. Tiếp theo là các bút
nhóm như Nam Phong với Nam Phong Tạp Chí (1917-1934) do Phạm
Quỳnh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhóm Đông Dương Tạp Chí (1913-1917)
do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. Đây là những người tiên phong trong việc truyền
bá văn xuôi quốc ngữ trong thời kỳ phôi thai của nền văn học quốc ngữ nước nhà.
Văn Học Sử Miền Bắc hồi đó và cả nước
bây giờ cũng không đề cập đến nhóm Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ) gồm các nhà văn Nhất
Linh-Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng-Trần Khánh Giư, Hoàng Đạo-Nguyễn Tường Long,
Thạch Lam-Nguyễn Tường Lân, Thế Lữ-Nguyễn Thứ Lễ… trong khi đây là một bút nhóm
có công rất lớn trong việc phát triển nền văn học cận đại. Tự Lực văn Đoàn đã
đưa dòng văn học lãng mạn và những tiểu thuyết luận đề như Đoạn Tuyệt,
Lạnh Lùng, Đôi Bạn… của Nhất Linh, Nửa Chừng Xuân, Hồn Bướm Mơ
Tiên, Tiêu Sơn Tráng Sĩ, Thoát Ly, Thừa Tự… của Khái Hưng, Gió Đầu
Mùa, Nắng Trong Vườn của Thạch Lam, Con Đường Sáng của
Hoàng Đạo… Với lối hành văn trong sáng, giản dị, văn phong hiện đại và phóng
khoáng. Cơ quan ngôn luận của nhóm là báo Phong Hóa (1932-1936)
và Ngày Nay (1936…) TLVĐ còn có nhà xuất bản Đời Nay để in ấn
các tác phẩm của họ. Những tiểu thuyết trong nhóm TLVĐ đã đưa nền văn xuôi nước
ta phát triển một bước tiến dài, lối viết của TLVĐ đã ảnh hưởng sâu rộng đến những
nhà văn thuộc các thế hệ sau. Tác phẩm của TLVĐ thấm đượm tinh thần nhân văn,
tinh thần chống lễ giáo phong kiến, chống các hủ tục và canh tân đất nước.
Dưới nhãn quan của những nhà biên soạn
Văn Học Sử Miền Bắc thì Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn
Vĩnh thì được cho là làm việc cho Pháp. Những nhà văn, nhà thơ trong TLVĐ tuy
có công lớn trong giai đoạn phát triển nền văn học nước nhà đầu thế kỷ XX nhưng
vì bất đồng chính kiến với chế độ. Nhóm TLVĐ đa số họ trước đây đều gia nhập Việt
Minh (VM) nhưng sau này vì không đồng quan điểm, chính kiến nên đã rời bỏ VM và
bị xem là phản động. nhà văn Nguyễn Tường Tam linh hồn của TLVĐ và những nhà
văn chủ chốt trong nhóm đa phần là thành viên Việt Nam Quốc Dân đảng bị VM xem
là thù địch, Khái Hưng bị VM thủ tiêu ở bến đò Cựa Gà. Tất cả những công lao của
những người là lá cờ đầu cho một giai đoạn văn học quan trọng như thế nhưng lại
không được đưa vào chương trình Văn Học Sử khiến cho nhiều thế hệ học sinh Miền
Bắc và cả nước bây giờ không biết một tý gì khi nói về những nhà văn có công lớn
trong giai đoạn văn học quan trọng này. Đây là một thiệt thòi lớn cho nhiều thế
hệ học sinh tại miền Bắc trước năm 1975 và cả nước trong nửa thế kỷ qua.
Có câu chuyện cười ra nước mắt chứng
minh sự “mịt mù” về TLVĐ của những người được đào tạo trong một nền giáo dục đầy
thiên kiến như vậy là ngày 9 tháng 1 năm 2007, trong trò chơi “Ai là triệu phú”
trên đài Truyền hình VTV3, người được mời lên chiếc “ghế nóng” tham dự chương
trình là cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, giảng viên trường Đại học Sư phạm thành phố
Thái Bình.
Câu hỏi nguyên văn như sau: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn
Đoàn: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng; ai là người không phải anh em
ruột với ba người kia?” Cô giảng viên Đại học Sư phạm suy nghĩ một lát rồi nói:
– Tự Lực Văn Đoàn, tôi chưa nghe nói đến bao giờ cả. Hình như đó là một gánh cải
lương. Còn Nhất Linh chắc chắn là một nghệ sĩ cải lương. – Riêng Hoàng Đạo, Thạch
Lam, Khái Hưng… tôi không biết ba ông này có phải nghệ sĩ cải lương như Nhất
Linh không.
– Vậy chị kết luận ai không phải anh em ruột với ba người kia?
– Tôi đề nghị cho tôi được hưởng quyền trợ giúp, gọi điện thoại cho người thân.
– Chị muốn gọi cho ai?
– Cho anh Nam, một bạn đồng nghiệp cũng dạy trong trường. Anh Nam là người đọc
rất nhiều sách, kiến thức rất rộng, chắc chắn anh ấy biết.
Phòng máy liên lạc với người tên Nam đang chờ sẵn ở nhà để trợ giúp cho cô Tâm.
Cô Tâm lập lại câu hỏi như chương trình đã hỏi: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn
Đoàn…”, “Anh cho em biết Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, ai không
phải là anh em ruột với ba người kia…” Đầu dây có tiếng trả lời rất lớn và dứt
khoát, nghe rõ mồn một:
– Hoàng Đạo, Hoàng Đạo không phải là anh em ruột với Nhất Linh, Thạch Lam và
Khái Hưng.
– Chắc chắn không anh?
– Chắc trăm phần trăm.
– Ba mươi giây của chị đã hết. Xin chị cho biết câu trả lời.
– Tôi tin vào kiến thức của người bạn đồng nghiệp của tôi. Tôi trả lời, Hoàng Đạo
không phải anh em ruột với ba người kia.
– Chị quyết định như thế?
– Vâng, câu trả lời của tôi là phương án B, Hoàng Đạo.
– Sai. Giải đáp của chúng tôi là phương án D, Khái Hưng. Khái Hưng không phải
anh em ruột với Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam. Hoàng Đạo tên thật là Nguyễn
Tường Long, sinh năm 1906, em ruột nhà văn Nhất Linh, anh ruột nhà văn Thạch
Lam…
Câu chuyện cười ra nước mắt này phản ảnh
đúng thực chất là học sinh Miền Bắc trước đây và cả nước bây giờ là không hề được
nghe đến TLVĐ chứ đừng nói chi đến công lao, văn nghiệp của họ. Có thể chúng ta
không trách cô giáo nọ vì mấy chục năm học hành cô có nghe gì đến TLVĐ đâu (!)
Có buồn chăng là khả năng suy luận của cô ấy cũng như anh bạn kia quá kém, dù
sao trong cái tên nhóm cũng có hai chữ Văn Đoàn mà mà sao cô giáo không liên tưởng
tới một hội đoàn văn chương mà lại nghĩ đến gánh hát cải lương?!. Còn anh bạn
được giới thiệu là người đọc sách nhiều, kiến thức rộng kia không biết anh ta
căn cứ vào đâu mà trả lời chắc như đinh đóng cột vậy? Cái chúng ta cảm thấy buồn
vì một đường lối giáo dục đặt nặng tuyên truyền chính trị và đầy thành kiến,
thiếu khách quan, thiếu công tâm với lịch sử đã gây ra nhiều hệ lụy xấu cho nhiều
thế hệ học sinh nước ta.
Dạy Văn Học Sử cho học sinh mà chủ
trương đưa quan điểm tuyên truyền và ý thức hệ chính trị vào trong đó, rồi loại
ra những người có công lớn với nền văn học nước nhà nhưng bất đồng chính kiến
là một sai lầm rất lớn. Chính cái lối giáo dục đó đã đào tạo ra hàng triệu học
sinh mà ngày nay họ là những công dân, có những người đang giữ vai trò trọng
trách đối với xã hội có những kiến thức lệch lạc về lịch sử, có những hiểu biết
hết sức phiến diện về một giai đoạn văn học quan trọng cũng như thiếu hiểu biết
về những người có công lớn trong việc phát triển nền văn học nước nhà đó thì thật
là đáng tiếc.
Gần đây đã có nhưng công trình nghiên
cứu, những hội thảo về TLVĐ, đã có đánh giá công nhận công lao của nhóm TLVĐ,
dĩ nhiên vấn đề được nhìn nhận dưới nhãn quan của những nhà nghiên cứu CS. Việc
nào ra việc đó, hãy đối xử công bằng, khách quan với những người đã đóng góp
công sức và trí tuệ để xây dựng cho nền văn học nước nhà có được như ngày hôm
nay. Đó cũng là tôn trọng lịch sử và văn hóa dân tộc.
Nguyễn Ngọc Luật
25-11-2022
Nguồn: Nam Kỳ Lục Tỉnh

No comments:
Post a Comment