30 THÁNG TƯ
Lại sắp đến ngày 30 tháng Tư, trên đất nước tôi người ta
kỷ niệm ì xèo ngày “chiến thắng vĩ đại, giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước”.
Từ cả tháng trước, ngày nào người ta cũng nhắc đến chiến thắng ấy của dân tộc,
phỏng vấn những tướng lãnh chỉ huy trận đánh về chiến lược, chiến thuật, những
chiến sĩ anh hùng, tất cả đều được đưa lên báo đài, cả những trang web bay đi
khắp thế giới. Buổi sáng tôi dậy sớm nghe đài nước ngoài, chương trình Việt
ngữ, nhưng bị phá sóng nhiều quá, nghe câu được câu không. Cũng ngày ấy cộng
đồng người Việt trên thế giới làm kỷ niệm, nhưng gọi bằng nhiều cách khác nhau,
ngày quốc hận, hay gì gì đó còn tùy.
Cũng ở trên đài Á Châu Tự Do tôi nghe cuộc phỏng vấn một đạo diễn trẻ người Việt
Nam ở nước ngoài, làm một cuốn phim về ngày bại trận 30 tháng Tư lấy tên là
ngày giỗ. Anh và các bạn anh thiếu thốn rất nhiều tư liệu về ngày hôm ấy,
nhưng chắp vá và lấy kỷ niệm của những người lớn chứng kiến vào thời ấy rồi
cũng xong. Bởi tại ngày anh ra đi, rời Việt Nam anh còn quá trẻ, tuổi đâu
khoảng 13 hay 14 chi đó, nhất là anh không có kinh nghiệm tham gia vào cuộc bại
trận ấy.
Người đạo diễn thanh niên này còn có tham vọng làm cuốn phim khác nữa sau khi
chế độ Việt Nam Cộng Hoà xụp đổ, về những trại tù khổ sai mà người ta gọi là trại
cải tạo. Tôi hy vọng anh ta và nhóm của anh có tâm huyết thì cũng xong,
có thể thành công. Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua có rất nhiều tư liệu
quý giá, tôi đã dược xem một cuốn phim do Mỹ sản xuất lấy tên là Trời và Đất.
Cuốn phim đã nói lên được thân phận Việt Nam giữa các thế lực, thân phận con
người Việt Nam đáng thương.
Tôi là một người Việt Nam, sống và lớn lên, trưởng thành trong thời buổi ấy, thời
buổi đau thương nhất của đất nước, nay lại sống suốt 29 năm trong chế độ, sắp sửa
30 năm, chưa một lần bị ngắt quãng, vì không ra nước ngoài, hay đi đâu xa khỏi
Việt Nam. Tôi là dân bại trận ở lại Việt Nam. Tôi không có gì ca tụng
về ngày 30 tháng Tư ấy, nhiều đau thương hơn thì có, gia đình tôi ly tán cũng
vào ngày ấy. Đàn anh của tôi nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm nhật báo Sống bị
giết chết lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, trên chiếc tầu di tản mới
chạy ra được đến cửa biển Cần Giờ.
Hàng năm tôi chúng tôi làm giỗ anh Chu Tử vào ngày đó, sau này không biết vì lý
do gì, đổi sang ngày âm lịch là ngày 19 tháng ba (trùng với ngày
30-4-1975). Có phải vì người ta đang ồn ào làm lễ kỷ niệm chiến thắng mà
mình lại làm giỗ, than khóc và tưởng nhớ đến người đã chết là chướng quá không,
vì vậy gia đình ông Chu Tử mới đổi ngày giỗ cho yên. Tôi cũng không bỏ một
buổi giỗ nào của ông Chu Tử, dù có đổi ngày, nhưng dù làm vào ngày nào anh em
chúng tôi ngồi với nhau, nhắc lại và nói về những kỷ niệm là ngày 30 tháng Tư
năm 1975, gia chủ tổ chức giỗ ông Chu Tử cũng không có ý kiến gì, buổi giỗ ấy
anh em chúng tôi tự do hoàn toàn. Những buổi giỗ ông Chu Tử sau này vắng
bóng dần những người anh em thân thiết của ông, người thì ốm đau bệnh hoạn đi
không nổi, người thì đã “dạo chơi tiên cảnh” khỏi “cõi tạm” đầy đau thương
này. Như Tú Kếu, như nhà văn Mặc Thu, như ông Khai Trí Nguyễn Hùng
Trương, vì ông mới qua đời.
Nhà báo Phan Nghị ở buổi giỗ nào còn oang oang kể lại kỷ niệm với chủ nhiệm Chu
Tử, nay cũng đã vắng bóng anh. Một đàn em thân thiết như Đông con tuổi
còn rất trẻ cũng không còn nữa. Nhưng buổi giỗ vẫn đông đảo, tôi thấy có
những anh em từ nước ngoài trở về, những Việt kiều đó ra đi do vượt biên hay diện
HO, những điện thư từ khắp nơi trên thế giới gửi về cho gia đình con cái ông
Chu Tử để tưởng nhớ ông.
Tôi đã qua 29 lần kỷ niệm vể ngày 30 tháng Tư trên đất nước “Xã Hội Chủ Nghĩa
VN”, kể ra thêm mệt nhưng không thể không kể. Tôi kiêu hãnh nói rằng tôi
là một trong những nhân chứng lịch sử, tôi vừa là nhà văn nhà báo, nói có nhận
xét, dù rằng cái nhận xét của riêng mình, nhưng đúng về mặt người cầm bút thì
phải công bằng và chính xác, tôi phục vụ cho nghề nghiệp và lý tưởng của nhà
văn nhà báo chân chính, không phục vụ hoặc làm bồi bút cho tổ chức hay đảng
phái nào đó.
Đối với tôi thì ngày 30 tháng Tư nào tôi cũng buồn, một người Việt Nam đang sống
trên quê hương mình, tôi tự hỏi, được chứng kiến những giây phút lịch sử trọng
đại, đất nước Việt Nam thống nhất quang vinh như thế mà buồn sao?
Sau đợt lùa những sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hoà bại trận đi học tập cải tạo,
đến lượt văn nghệ sĩ chế độ cũ, và các vị chức sắc tôn giáo vào những trại tập
trung dài dài từ Bắc chí Nam. Các ông cai ngục, cai tù được gọi là quản
giáo, cán bộ dậy bảo, giáo dục cho các phạm nhân lầm đường lạc lối hiểu biết đường
lối của đảng, của cách mạng, và không ai có án rõ ràng, khi được tha về phạm
nhân được phát cho cái giấy ra trại. Đọc qua giấy này họ mới té ngửa ra
lúc mới biết tội danh của mình và thời gian học tập cải tạo là bao nhiêu năm,
bao nhiêu tháng có khi còn bị ăn gian. Còn người ở lại được nhà trại nói
lấp lửng chừng nào “học tập tốt” thì về. Có người phải ở trong tù vài chục
năm vì bị nhà nước cho rằng họ chưa được tốt. Tôi không hiểu người ta dựa
vào tiêu chuẩn nào gọi là tốt và xấu để giam giữ người vài chục năm như vậy, với
lời kết án thật mơ hồ.
Tôi bị bắt nóng ngoài đường, không bị liệt vào hàng ngũ văn nghệ sĩ phải học tập
cải tạo, mà với một tội danh khác, tổ chức phản động, một tội rất dễ chết.
Khốn nạn cho cái thân tôi, thời chế độ cũ đi lính binh nhì không xong, mà nay lại
là người tổ chức chỉ huy một trung đoàn, có tên trung đoàn Quyết Thắng trong hồ
sơ phản động của tôi. Tôi bị tra tấn, bị đánh và những người tra tấn tôi
ngày nào cũng bắt tôi phải khai ra cái trung đoàn Quyết Thắng này ở đâu.
Vì bỗng nhiên mình lại mang một tội danh “oai” như thế, một trung đoàn trưởng,
nên tôi cũng phải phì cười sau những trận đòn tra tấn thừa sống thiếu chết.
Tôi cũng không biết người ta phong cho tôi, chức gì, cấp bậc nào, tướng hay tá
trong trung đoàn mà tôi bị đứng vào hàng “chủ xị”. Một trung đoàn không
có quân số, không doanh trại không có cả chiến khu kháng chiến. Bản lấy
cung của tôi bị bỏ dở dang, không có tôi ký tên nhận tội. May quá thế là
tôi thoát chết, tôi đã thấy nhiều người bị chết, bị mang ra xử bắn vì những tội
danh bá vơ ấy. Tôi nói với bạn bè đồng tù:
– Dù tao có là thằng nhà văn nhà báo ngu dốt cũng không bao giờ đặt cái tên
trung đoàn Quyết Thắng cho tổ chức quân sự của tao, vừa quê vừa thối. Ai
cũng biết các khẩu hiệu quyết thắng, quyết chiến, quyết tử, quyết sinh là sản
phẩm của các anh Việt Minh, các anh đã xài mòn teo ra rồi, từ thời kháng chiến
đánh đuổi thực dân Pháp kia, rồi đến thời chống Mỹ cứu nước xài lại, nay không
biết dùng làm gì nữa thì gán đại cho tao. Tao biết ngay các anh độc lắm,
lại một trò chụp mũ buộc tội cho người khác để mang ra xử theo luật rừng.
Tôi lênh đênh qua nhiều nhà giam ở thành phố, rồi mới đưa lên trại học tập trên
rừng, an tâm học tập cải tạo ở nơi đó, bao giờ học tập tốt thì được về xum họp
với gia đình. Nhà nước, nhà cầm quyền nói như thế. Chúng tôi ngắc
ngoải sống trong lao động khổ sai, nhiều anh em kiệt lực gục xuống bỏ xác trong
các trại tù. Thân phận chúng tôi như những nô lệ trong phim Tần Thủy
Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành hay những nô lệ xây Kim Tự Tháp Ai Cập.
Nhiều lần đào cuốc trúng mìn ngoài bãi lao động, mìn nổ thương vong vô khối,
nhưng được giải thích là mìn đó là của Mỹ Ngụy gài lại để giết nhân dân.
Bây giờ chúng tôi có chết có thương vong thì cũng chỉ là “gậy ông đập lưng ông”
thôi. Chúng tôi nhiều lần đề nghị với ban quản giáo xin được tự gỡ mìn để
khỏi gây hại cho phạm nhân, nhưng được lãnh đạo trại “nhân đạo” từ chối, vì sợ
mất thì giờ lao động sản xuất kiếm ra của cải cho đất nước chúng ta còn
nghèo. Đồi nghĩa địa chật kín những mồ hoang của anh em chúng tôi.
Sáng đi lao động, chiều về nhìn mặt trời gác bóng trên sườn núi Chứa Chan mới
biết mình còn sống, mong sớm có ngày ra xum họp với gia đình.
Tôi không nhớ rõ là mình ăn đến mấy cái ngày kỷ niệm 30 tháng Tư trong trại cải
tạo, vì từng bị bắt lên bắt xuống, như bắt cóc bỏ đĩa, tha rồi lại bị bắt lại.
Ngoài cái tội phản động, tôi còn tội phản quốc bỏ quê hương mà trốn đi, tức là
tội vượt biên mà không thoát. Phải chi ngày đó tôi trốn thoát, thì bây giờ
được nhà nước ưu ái gọi là Việt kiều được phép trở về thăm quê hương, được nâng
như nâng trứng, hứng như hứng hoa, mấy anh Việt cộng từng đánh đấm bỏ tù, từng
kết tội tôi là Việt gian sẽ ngọt ngào khuyên tôi quên chuyện cũ nên đóng góp tất
cả những gì tôi đang có để giúp cho đất nước quê hương Việt Nam mà các anh đang
cai trị. Tôi đã thấy những cuộc tiếp đón long trọng những Việt kiều trở về
thăm quê hương được diện kiến những lãnh đạo trong nước và họ được huy chương,
và được ca tụng vì những đóng góp của họ đã được truyền thanh truyền hình đi khắp
mọi nơi. Họ thành người yêu nước, có ẩn chứa yêu đảng cầm quyền.
Trong trại học tập, ngày 30 tháng Tư mỗi năm được tổ chức xôm tụ lắm, mà anh em
chúng tôi gọi là ngày “đứt phim”. Từ ba giờ sáng một số trại viên có tay
nghề trong việc nấu nướng đã được điều lên nhà bếp để thọc tiết heo mổ bò làm đồ
ăn, thổi cả cơm nữa, hương cơm phảng phất khắp trại làm các trại viên chúng tôi
tỉnh cả ngủ, dù là hương gạo mốc, không phải gạo Nàng Hương chợ Đào. Những
hương vị âm thanh hấp dẫn đó làm chúng tôi trở nên háo hức, vì chúng tôi là những
kẻ thường xuyên ăn đói mặc rách, cả năm chỉ ăn khoai ăn sắn có biết cơm thịt là
gì đâu, sức lao động vị vắt kiệt từng ngày, nay có cơm thì mừng quá. Bao
nhiêu năm qua chúng tôi sống trong một miền Nam trù phú lúa thóc không bao giờ
thiếu, người nông dân chỉ trồng một mùa cũng ăn được mấy năm. Mà nay phải thèm
và nhớ cơm, tưởng tượng cũng không ra được bát cơm nó thế nào? Tôi nói có
quá không? Nhưng cũng không xa sự thật là mấy.
Ngày hôm ấy chúng tôi được nghỉ lao động và sang ngày hôm sau là ngày quốc tế
lao động 1-5, vị chi là hai ngày được ăn được chơi trong vòng rào giây thép
gai. Chúng tôi được nghe chính trị viên của ban quản giáo giảng giải cho
nghe ngày chiến thắng 30 tháng Tư. Nhưng chỉ là chuyện nước đổ đầu vịt,
chúng tôi chỉ nghĩ đến kỷ niệm của chúng tôi vào ngày ấy. Buổi trưa chúng
tôi được ăn một chén cơm, miếng thịt heo hay thịt bò chi đó bằng ngón tay, chan
tí nước xốt cho mặn miệng. Lòng lợn tiết canh mang lên nhà khung cho ban
giám hiệu và thủ trưởng đon vị xơi, uống rượu hút thuốc. Lòng nhân đạo của
đảng vô biên, không thể nói hết được.
Về phía các học viên chúng tôi thì sao, cũng chia ra mấy phe trong cuộc ăn uống
ấy, không phải tranh nhau ăn, mà cách ăn uống cũng khác lạ. Có phe còn nặng
lòng với chế độ cũ mà anh đã phục vụ, nay trở thành bại tướng trong ngày 30
tháng Tư, nhất định không ăn đồ ăn của “kẻ thù” ban phát mà ăn gì đó với muối.
Phe thứ hai lấy đồ thăm nuôi của mình ra mời anh em ăn sạch. Phe thứ ba
ăn ráo những gì được ban phát với lý luận: “Ta ăn thứ này là của ta làm ra, chẳng
ăn chực thằng nào hết, gạo này chính ta làm ta cấy cầy, thịt này cũng chính
chúng ta chăn nuôi, không ăn là dại. Ăn bám, ăn trên xương máu chúng ta
là những thằng cai tù chứ không phải chúng ta. Lý luận nào cũng đúng cả,
không ai đụng chạm tới ai.
Anh chán đời ngồi quay mặt vào tường “diện bích” hết ngày 30 tháng Tư là chuyện
của anh. Tự do của mỗi cá nhân được tôn trọng tuyệt đối, nên cuộc ăn uống
ấy cũng diễn ra êm thắm, không phải tinh thần xôi thịt mổ cãi nhau như mổ bò ở
các đình làng nhà quê. Dù sao tôi cũng nể các anh cải tạo chịu ăn cơm muối
lắm,các anh còn có liêm sỉ và sĩ khí của một chiến sĩ, tôi không thể đánh giá
thái độ ấy là sai hay đúng.
Tôi lại nghĩ đến những anh hùng trong sử sách, đến một Hoàng Diệu, tuẫn tiết
theo thành Thăng Long khi quân Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất. Một Nguyễn
Tri Phương không chịu cho kẻ thù buộc vết thương khi Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ
hai. Một Võ Tánh chất củi tự thiêu khi bại trận. Một Trần Bình Trọng
thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc.
Trong đời làm báo của mình, trong trận chiến cuối cùng ngày 30 tháng Tư, tôi đã
thấy những người lính Nhẩy Dù trại Hoàng Hoa Thám ở ngã tư Bảy Hiền ôm nhau cho
nổ lựu đạn để cùng chết bên nhau, sau khi có lệnh đầu hàng vô điều kiện của tướng
Dương Văn Minh. Và sau đó hàng loạt tướng tá của chế độ Cộng Hoà ở miền
Nam tự sát khi nghe lệnh đầu hàng của “tổng thống” tạm quyền. Tôi chắc chắn
rằng sử sách có ghi lại, dù rằng chế độ ấy thua trận và bị bôi nhọ suốt bao
nhiêu năm trời, bị vu cáo là có bao nhiêu tội lỗi với “nhân dân”. Chính sử
không thuần ở trong tay kẻ chiến thắng, mà ở trong lòng mọi người trên đất nước
này, không thể bóp méo, không thể như cục đất sét muốn nặn hình gì theo ý họ.
Còn những thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bại trận ngày 30 tháng Tư năm
1975 thì sao? Tôi đã thấy họ bị đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà chiều
ngày 30 tháng Tư lịch sử ấy. Anh mù cõng anh què. Anh đổ ruột vịn
vai anh cụt tay. Họ đi hàng hàng lớp lớp suốt một quãng đường dài, đau
thương lắm, tiếc rằng không một phóng viên nhiếp ảnh nước ngoài nào chụp được một
tấm hình. Cái máy hình của tôi chụp được mấy tấm thì bị đập bể tan nát,
suýt nữa thì tôi nguy hiểm đến tính mạng vì những kẻ trở cờ theo đóm ăn tàn, hoặc
những tên lưu manh mà xã hội nào cũng có, mà hồi ấy chúng tôi gọi cái đám ấy là
cách mạng 30, nghĩa là mới gia nhập cách mạng vào ngày 30 tháng Tư năm
1975. Họ đang khao khát lập công để tìm cho mình một chỗ đứng, hoặc được
một tí ân huệ bố thí.
Tôi đã trải qua hai mươi chín cái ngày 30 tháng Tư, chỉ còn ít ngày nữa thì
tròn 30 cái ngày kỷ niệm. Sao trong đầu tôi lẩn quẩn hoài về những kỷ niệm
đau thương ấy, những người thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bi đuổi ra
khỏi quân y viện Cộng Hoà. Họ đi về đâu? Mắt tôi nhìn thấy có
những người thương binh kiệt lực, kiệt sức ngã ngay trên đường đi, trên lối cổng
ra vào quân y viện và tôi đã nhìn thấy những giọt nước mắt uất hờn còn đọng
trên đôi mắt của những người thương binh này. Trong ngàn vạn con người ấy
thế nào không có kẻ sống sót, tôi cũng đã thấy anh mù giắt anh què hát rong
ngoài đường, xin đồng tiền bố thí của đồng bào. Họ bị quên lãng đã ba chục
năm nay, nên có sự công bằng cho người chết thì cũng nên lo cho người còn sống,
họ cũng đã hy sinh một phần thân thể trong cuộc chiến nồi da xáo thịt
này. Người ta đang nói tới chuyện phục hồi Nghĩa Trang Quân Đội ở trên
Biên Hòa.
Không biết chuyện này rồi sẽ đi đến đâu. Tôi là người sống ở Sài Gòn đã gần
30 năm, nghe tin ấy tôi đã mong muốn được thăm nghĩa trang quân đội xưa vì có
người thân đã chôn xác ở đó. Nhưng theo tôi biết đâu phải ai cũng được tự
do ra vào để tưởng niệm người đã chết, ý nguyện của tôi không được chấp nhận.
Người ta nói phục hồi nghĩa trang quân đội chế độ cũ, phục hồi thế nào tôi
không biết, tôi thắc mắc trong việc làm ấy họ có phục hồi pho tượng Tiếc Thương
bị giật đổ trước cổng nghĩa trang quân đội từ ba chục năm trước không.
Sau 30-4-1975 hàng loạt tượng đài bị giật xập, và nay nghĩa trang sẽ để tên gì
cho phải đạo làm người, mồ mả còn không. Tôi nghe mất mát cũng nhiều lắm,
nếu còn thì là những nấm mồ hoang, kẻ nằm dưới đất kia là kẻ có tội, không ai
được quyến thăm viếng vì thăm viếng là bị “văng miểng”. Tôi chỉ mong muốn
được đến đấy, thắp lên một nén nhang tưởng niệm, dù mồ mả của những người chiến
sĩ Việt Nam Cộng Hoà có còn hay đã mất. Tôi cho chuyện làm ấy hay lời hứa
hẹn ấy là phiêu, chẳng có gì xất cả.
Tại tiệm phở Hòa, một tiệm phở nổi tiếng cuối đường Pasteur trong thành phố Sài
Gòn, tôi thường gặp một anh bán báo, cụt cả hai tay, hai tay cụt đó được ráp
hai tay sắt inox có kẹp, thao tác rất gọn ghẽ, anh kẹp những tờ báo đưa cho
khách hàng hoặc nhận tiền, thối lại tiền bán báo. Không biết anh bán báo ở
đó đã bao nhiêu năm.
Một hôm anh mời tôi mua báo. Tôi lấy tiền ra biếu anh, vỉ sáng nay tôi đã
mua báo ở sạp báo gần nhà. Anh ta nhìn tôi khẽ lắc đầu:
– Không, cám ơn ông tôi không thể nhận được.
– Vậy tôi mua báo. Tôi hỏi anh.
– Vâng ông chọn tờ nào?
Tôi chọn đại một tờ trong xấp báo mà anh ta ôm trên người, tôi đưa tiền cho anh
ta, nói:
– Thôi anh khỏi phải thối lại.
– Vâng cám ơn ông.
Tôi nhìn kỹ anh ta hơn, tôi hỏi thăm về hai tay anh. Anh ta nói:
– Tôi không bị tai nạn mà là thương binh chế độ Cộng Hoà
– Anh thuộc binh chủng nào hồi trước? Tôi hỏi tiếp.
Anh ta không trả lời về binh chủng của anh chỉ nói:
– Hồi đó tôi bị thương cụt cả hai tay ở mặt trận Bình Long, họ làm cho tôi hai
cánh tay này và tập cho tôi cách xử dụng. Gần ba chục năm nay tôi đi bán
báo để sinh sống.
Vì lý do gì đó anh không nhắc tên binh chủng của mình. Nhưng khi tôi nói
tên của vị tướng chỉ huy mặt trận, mắt anh ngời sáng. Tôi không ngờ đã mấy
chục năm qua anh không quên và dành cho cấp chỉ huy mình sự tôn kính chân
thành. Tôi ngưỡng mộ anh là người dũng cảm, liêm sỉ từ tư cách đến việc
phải kiếm sống, làm một con người. Đó là điều hiếm có, ít có ai sống
trong đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa dám biểu lộ cái tinh thần quật cường ấy.
Có ngài Việt kiều ngày xưa từng giữ những chức vụ quan trọng, từng là “cựu” này
“cựu” kia, ngày “đứt phim” chạy có cờ, bỏ đồng đội bỏ của chạy lấy người, nay về
thăm quê hương phát biểu linh tinh chả ra cái giống ôn gì, so ra tư cách của
ngài với anh chàng thương binh này, cách xa một trời một vực, thật là quá
chán. Tôi nói với anh:
– Anh rất can đảm, tôi ngưỡng mộ anh.
– Có gì đâu, tôi còn thua ông tướng chỉ huy chúng tôi. Anh cười nhũn nhặn.
Tôi nghĩ đến tướng Lê Văn Hưng, tướng tử thủ ở Bình Long Anh Dũng, người không
trốn chạy mà tự sát như một số tướng lãnh khác của chế độ Cộng Hoà ngày 30
tháng Tư, sau khi “tổng thống” Dương Văn Minh đầu hàng vô đìều kiện.
Báo đài ngày nào cũng có bài ca tụng về ngày lịch sử 30 tháng Tư, ngày chiến thắng
vĩ đại của dân tộc, ngày chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước. Đoàn
quân chiến thắng kéo quân vào thành phố được sự đón tiếp nồng nhiệt của nhân
dân thành phố, cùng nổi dậy với cách mạng, bao nhiêu người ra phất cờ chào đón
đoàn quân. Một hoạt cảnh mà tôi, một phóng viên chiến trường đã hết thời,
ghi nhận được đúng ngày hôm đó.
Cuộc bại trận nhanh quá, nhanh đến độ dân Sài Gòn phải ngỡ ngàng. Kẻ nào
không chạy thoát theo những chuyến di tản thì đổ ra đường xem đoàn quân chiến
thắng đi dép, đội mũ cối hay mũ tai bèo vào thành phố. Có những xác người
dân hoặc lính chế độ cũ chưa được thu nhặt còn sót ở những góc đường, trên những
quân trang quân dụng ném đầy trên đường đi, cả vũ khí nữa chưa kịp thu nhặt.
Những con người đang đứng ngơ ngác ngỡ ngàng ở đó, bị nhét vào tay những lá cờ
giấy, và anh “cách mạng” đeo súng mang băng tay đỏ mặt gườm gườm những kẻ không
nhiệt tình vẫy cờ chào đón anh bộ đội cụ hồ tiến vào thành phố. Tôi thấy
một người đàn ông cũng bị nhét vào tay một lá cờ, một anh mang băng đỏ đeo súng
ra huých vào sườn người đàn ông đó một cái. Ông ta có lẽ hiểu ý liền nhẩy
cẫng lên phất cờ lia lịa, mồm la hoan hô tưng bừng. Thế cũng là quá đủ,
tôi lủi vào đám đông kiếm đường chạy về nhà. Ngoài kia những dòng người dầy
đặc dần trên đường, có người đang tìm kiếm người thân, người tung hô những khẩu
hiệu chiến thắng, người ngơ ngác ngẩn ngơ đứng nhìn. Họ không chịu tin
vào sự thực là Sài Gòn bị thất thủ.
Nguyễn Thụy Long
3O4 Llttm - OVV

No comments:
Post a Comment