NGHIỆP CHƯỚNG
Ông già què lê đôi nạng gỗ đến dưới bóng mát
cây phượng cạnh sân ga, trải tấm áo đại cán bốn mùa xuống đất. Đoạn, ngồi xuống
tấm áo, lôi cây ghi-ta ra, căng lại dây đàn. Ông gỡ cái thau men từ sau lưng,
có đục hai lỗ sát mép để sỏ quai, đặt ngay trước mặt cho dễ ngó. Ông quàng tay
vét vét mất sợi rác mảnh dính dưới đáy chậu, rồi giơ cái chuông ngựa lên ngang
đầu, rung một hồi. Mấy người đạp xích lô đang ngủ, kéo cái mũ cối che mặt
ra khỏi vành tai cho thông thoáng. Mấy người dân quê đang chờ tàu thấy lạ, kéo
xúm lại. Một vài ông
dừng xe đạp, ngồi ghếch chân trên yên. Có một đám thanh niên, dường như đã chờ
sẵn ở hàng lan can xi-măng, ùa đến vây lấy ông. Ông già thấy chừng đã vừa
khách, bèn cầm cây đàn lên dạo một đoạn nhạc vui, rồi hắng giọng :
– Kính thưa các quí ông, quí bà. Hồng Đức tôi
kính cẩn cúi chào quí vị. Xin quí vị thứ lỗi cho tôi không thể đứng ngay ngắn để
tỏ lòng tôn kính quí vị được. Nhưng thưa quí vị, tôi xin dùng lời ca, tiếng nhạc
để tạ lỗi cùng quí vị.
Giọng ông cũng ra riết, bổng trầm, có thua gì
mấy kịch sĩ thượng thặng trong nhà hát thành phố. Giới thiệu xong, ông cúi đầu,
nẩy nhẹ mấy ngón tay trên dây đàn, đệm hợp âm theo điệu hành khúc, rồi móp má lấy
hơi, chụm môi, huýt sáo bản “Anh vẫn hành quân”, có tiếng mõ chân đập nhịp.
Thêm mấy vị áo quần là lượt phanh xe, để mắt ngó vào. Xong bản “Anh vẫn hành
quân”, lượng khán giả đông thêm một chút.
Trong
đáy chậu đã có mấy đồng cắc bạc. Phấn chấn, ông chơi tiếp bản “Trường sơn đông,
Trường sơn tây”. Lần này ông bắt giọng theo nhịp đàn, biến tấu, luyến, láy theo
âm lượng của bản giọng. Người nghe thấy lạ tai, khoái nhĩ. Lại vài đồng cắc nữa
rơi leng keng xuống
đáy chậu. Hưng phấn bốc lên, ông độc tấu liền một lúc bốn bài ca Trường sơn. Phải
thừa nhận tiếng đàn của ông lão chơi vơi vô cùng điêu luyện. Lúc thì vang lên
tiếng kèn xung trận. Khi thì thánh thót như tiếng suối reo lưng dèo. Đến đoạn
cao trào, chiếc ghi-ta đơn lẻ được ông trình tấu như một dàn nhạc. Hai bàn tay
ông lão múa trên mặt đàn. Cùi tay ông thốc vào bầu đàn thay cho tiếng trống.
Người xem kéo đến vây kín xung quanh. Có người phải kiễng chân trên hàng rào
xi-măng để nhìn cho rõ.
– Lão già chơi không kém gì chuyên nghiệp.
– Thì hẵn là chuyên nghiệp chứ nghiệp dư sao
được như thế này.
Người quanh ga ai cũng biết ông. Người ta biết
ông vì ông là người hát rong lập dị. Hát rong có giờ. Người ta thích ông vì ông
hát được nhiều thể loại nhạc. Có đỏ. Có vàng. Có xanh. Có tím. Có dân ca. Có tiền
chiến.
Một lần, có một cậu học trò hỏi chọc ông hát
bài “Chiều Moskva”, bằng tiếng Nga ngọng líu. Ông lẳng lặng sửa lại cung đàn, gảy
sô lô phần nhạc dạo, rồi trải giọng theo những viên đá xám trên đại lộ dẫn đến
hồng trường. Cậu học trò hổ ngươi, lủi mất. Ông mới về hát ở ga chừng hơn 1
tháng mà đã có nhiều giai thoại về ông.
– Ngày xưa ông là diễn viên trong đoàn văn
công của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN.
– Không phải. Trước đây ông là nhạc công
chuyên nghiệp đã được đi tập huấn ở nước ngoài về.
– Sai bét. Ông là người Bắc Ninh. Trai Bắc
Ninh mới nứt mắt ra là biết hò quan họ. Không tin cứ bảo ông hát bài “Qua cầu
gió bay” mà coi.
– Tại sao ông ta không làm trong đoàn ca nhạc
đài tiếng nói nhỉ ?
– Tưởng bỡn. Mẹ. Thành phần nồng cốt cả. Cứ “Lạy
mẹ con đi” với “Xuân này con không về” thì ngồi đấy mà chờ.
– Công cụ tuyên truyền. Què cụt thế này thì
chó nó tuyển…
Chơi
xong mấy bài Trường sơn, ông vã mồ hôi, lưng áo ông loang ướt. Ông rời cần đàn.
Lôi cái bi đông Trung quốc ra tu một hớp. Lấy khăn mặt ra lau trán. Trong đáy
chậu đã có thêm vào hào giấy. Ông ngẩng lên tỏ lòng cám ơn những khán thính giả
rộng rãi. Phía vòng ngoài,
một bóng áo vàng thấp thoáng. Có sai phạm gì ? Ông cứ hát.
– Ông có hát được nhạc tình của Phạm Duy không
?
– Thưa quí cô. Xin cô cho phép tôi từ chối hát
nhạc vàng của Mỹ ngụy. Bóng chiếc áo vàng vẫn thấp thoáng.
– Thế thì “Rặng trâm bầu” đi ông.
Ngày nào cũng có người yêu cầu bài này. Nhuyễn
rồi. Đâu có gì khó khăn.
– Ngâm thơ đi, hay ca cải lương cũng được.
– Vâng. Thưa các quí ông, quí bà. Để thay đổi
không khí, bây giờ Hồng Đức tôi xin ngâm hiến quí vị bài thơ “Đời ta có đảng”.
Ông cầm cây móng nhựa, tỉa mấy nốt đơn, trầm.
Tiếng đàn nghe như tiếng tam thập lục. Ông vươn cổ trữ hơi. Khi tiếng đàn vừa
trùng xuống thì giọng ư a của ông cất lên.
“Con ơi…ư… Từ khi…ư…a…mới có…ư…được ngày…ì…hôm
nay…ư…”
– Ông già.
Ông cắt giọng, ngẩng lên.
– Đồng chí gọi tôi.
– Đứng lên. Theo tôi về đồn.
Tên
công an áo vàng cúi xuống nhấc cái thau men của ông. Ông vội buông cần đàn,
xoài người chụp lấy cái thau nhưng không kịp. Tên công an đã rẽ đám người, bê
cái thau
xăm xăm đi vào trạm công an nhà ga. Ông nhấp nhô đuổi theo. Vào đến trạm, ông hớt
hải hỏi.
– Đồng chí công an. Tôi đã phạm lỗi gì ?
– Ông đã bêu rếu đảng.
– Tôi đã bêu riễu đảng bao giờ, ở đâu ?
– Ông ngâm bài “Đời ta có đảng” lúc nãy, ông
quên rồi à ?
– Bản đó ca ngợi công ơn của đảng, sao đồng
chí lại bảo là bêu riễu đảng ?
–
Ý ông bảo từ khi có đảng ông mới phải đi ăn mày như vậy à. Ông và những kẻ ăn
mày ca bản ấy là có tư tưởng bêu xấu đảng. Ông hiểu chưa ?
Ông
già cứng mặt. Tên công an đổ đống xu, hào lên mặt bàn rồi lẳng cái chậu men xuống
đất đánh xoảng.
Ông già vội ngã người, lấy thân đỡ cái chậu. Tên công an nhanh tay gạt đống tiền
xu vào ngăn kéo rồi rút ra một tờ biên bản.
– Ông Biện. Kể từ khi quản chế, đây là lần thứ
hai ông phạm tội. Lần trước tôi bắt gặp ông đang hát nhạc vàng bêu riễu đảng. Tội
ông rất lớn. Nhưng xét công lao của ông và chính sách đối với thương binh, ông
vẫn được tự do đi lại trong khu vực. Nhưng, để tránh có lần thứ ba..
Tên công an dừng lời. Hắn cố nặn óc để tìm một
hình phat thích hợp nhất đối với ông, và có lợi nhất đối với hắn.
– Thế này. Từ giờ trở đi, ông chỉ được hát những
bài do chúng tôi qui định trong tờ biên bản.
Tên công an liệt kê ra những bài hát mà hắn biết
rằng, ông già hát rong tài ba kia sẽ nằm gọn trong gio. câu của hắn :
Giải phóng miền Nam, Như có Bác Hồ trong ngày
vui đại thắng, Hành quân xa, Giết hết không còn một tên giặc Mỹ, Ba cô đi cấy
chăng dây, Đường cày đảm đang. Toàn những bài máu, lửa, phân, đất.
Ông Biện cầm tờ biên bản, chống nạng đi ra. Tới
bóng cây phượng, ông ngồi phệt xuống bờ đường.
– “Còn khoe?, hát phục vụ chiến trường. Cụt
chân, bị phế thải. Hát rong, sai tư tưởng. Chống lại, bị quản chế. Đời khốn nạn.
Vui không được. Ca ngợi cũng không được. 6 bài hát này thì hát cho cha chúng nó
nghe à”.
Trong trạm, tên công an khoái trí mở ngăn kéo,
đếm đồng tiền.
– “Mẹ. Mới loáng một cái nó đã làm hơn 5 đồng
bạc, bằng cả 2 ngày lương của mình”.
Hắn dồn đống xu vào túi quần, gập xấp giấy hào
cho vào túi ngực, rồi xách xà cột ra cửa sổ quan sát. Đằng kia, một đám người
đang vây quanh mấy bà bán rau trên vỉa hè. Hắn nhoẻn miệng cười, nhanh lẹ mở nắm
đấm, rồi luồn người đi vòng ra phía cổng hậu.
*
Đã gần hết ngày, ông Biện vẫn chưa có gì lót
ruột. 6 bài hát ông kêu ra rả cả tuần lễ, chỉ tổ làm khổ tai người đi đường. Mấy
người đạp xích lô phải đẩy xe ra chỗ bóng dâm khác chờ khách. Dăm người khán giả
quen mặt thất vọng, lạnh lùng. Xế chiều. Người đợi tàu ngồi bừa ra đến ngoài
tam cấp.
– Ông già. Ca cải lương đi ông. Ông lão bậm
môi, lắc đầu.
– Hay dân ca Nam Bộ cũng được.
Ông vẫn làm thinh.
Phía trạm công an, tên công an dạng cẳng, tót
lên xẹ
– Nó đi rồi. Ca đi. Tôi gác đờ co cho.
Người đạp xích lô đủn cái xe đến gần chỗ ông
ngồi. Ông lê ra máy nước, ngửa cổ tợp một hớp, chùi mép vào tay áo, rồi quay lại
chỗ cái áo và bộ đồ nghề.
Ông ngồi xuống, vuốt cần đàn. Giọng hát mê hồn
của ông qua bài dân ca Lý Con Sáo làm người ta bu lại đông đặc. Tiền xu tới tấp
ném xuống. Tới bản dân ca Trung Lý Ngựa Ô. Người ta vỗ tay rôm rớp.
Rồi “Người Ơi Người Ở Đừng Về”. Đáy thau đã phủ
một lớp mỏng tiền hào và kẽm.
– Chơi thử bài “Lên Ngàn” xem nào.
– Thì “Lên Ngàn”.
Ông dốc hết sức. Bụng càng cồn cào. Hơi lấy
vào thì nhiều nhưng đẩy ra thì kém. Vừa dứt bài “Lên Ngàn”, ông ho rũ.
– Ông biết bài “Trăng Tàn Trên Hè Phố” không ?
– Một giọng mũi của một gã đứng vòng ngoài yêu
cầu. Chiều lòng người ái mộ, ông chuyển lại thế ngồi, đổi gam sang nhạc lả lướt.
Khoang miệng ông mở rộng, yết hầu rung nhè nhẹ. Bài ca được ông thể hiện quả
công phu
– Ông già.
Ông choàng tỉnh. Mắt trừng trừng mở. Tay đàn
đóng cứng. Mồm há hốc. Tên công an lừng lững đứng trước mặt ông. Hắn không nói
thêm một lời, cúi xuống nhắc chiếc thau trắng men. Ông không nhúc nhích. Người
xem nhanh chân tản hết. Tên công an quay đầu, bê chiếc thau men về trạm. Ông chẳng
buồn đuổi theo. Mà cũng có thể ông không còn đủ sức để đuổi theo. Ông cứ ngồi.
Đêm lãng vãng bò về. Chuyến tàu đêm vừa dứt. Sân ga lặng như chì. Ông bò đến ụ
máy nước, vặn vòi cho chảy tí tách. Đoạn nằm ngửa, há mồm cho nước chảy xuôi vô
cuống họng…
*
Chiều muộn hôm sau, ông lết ra máy nước, gội đầu,
cọ cổ sạch sẽ. Rút lược, chải tóc hất ngược ra sau. Xong xuôi, ôm đàn lê đến
chân tường, sát trạm công an nhà ga, ngồi xuống. Tiếng chuông ngựa leng reng.
Người chờ tàu đổ lại. Tên công an ngó cổ.
Ớ. Còn cái thau. Hắn thụt vào. Chắc lão kiếm
được cái khác thay thế. Ngoài sân đã dập dìu tiếng nhạc. Mày chết. Lại nhạc
vàng. Hắn ngó cổ ra. Chưa đông lắm. Lại thụt vào. To gan. Nhạc kích động. Hắn
hé cánh cửa sổ.
Không thấy có cái thau. Diệu kế. Thằng trẻ con
mang mau cái thau men, chui qua hàng chân, để xuống trươc mặt ông.
Phản
động. Nhạc tiền chiến. Hắn bước ra khỏi phòng, kiễng chân ngó qua vai khán giả.
Vẫn cái thau không. Bản nhạc “Nỗi Lòng Người Đi” vừa rứt. Ông già đưa cái khăn
mặt lên miệng. Cơn ho không thoát ra được, hục hặc trong mồm. Một tiếng keng. Hắn
mừng rộn. Một tiếng
keng nữa. Đồng chinh lẩy lanh canh trong chậu.
– Xin đừng cho tiền.
Đèn nhà ga vàng vọt hắt quanh. Hắn chặn mũi,
giả giọng cổ.
– Có biết nhạc VN ở hải ngoại không ?
Lại một tiếng keng nữa.
– Xin quí vị cầm tiền lại.
Trân trọng. Ông nâng đàn. Tiếng lòng ai oán
như thoát từ tâm hồn người bỏ xứ.
“…Sàigòn ơi, ta mất người như người đã mất
tên…”
Ông vừa dứt giọng, một bà cúi xuống đặt vào
trong thau tờ giấy một đồng.
– Xin bà hãy cầm lấy tiền của bà… Bần sĩ không
nhận tiền của quí vị hôm nay.
Ông lão lại đưa cái khăn mặt lên miệng. Chuỗi
lục khục trong yết hầu.
– Đây là lần cuối cùng…bần sĩ hát cống hiến
quí vị. Ông giơ tay huơ huơ trên đầu.
– Xin giã biệt.
Quay mặt vào góc tường, ông ho như xổ ra từng
miếng phổi.
– Mẹ. Lão già.
Tên công an hậm hực trở về trạm, lôi chiếc xe
đạp xuống đường. Tàu đêm đến. Sân ga vắng hẳn. Có người thanh niên đưa cho ông
chiếc bánh mì còn nóng. Ông xua tay.
– Em cầm lấy đi… Tôi không còn cần đến nó nữa.
Ông giơ tay chặn lấy miệng, ngoái đầu kiếm
quanh. Cái chậu men nằm tênh hênh bên cạnh. Ợ…ộc. Một đống máu lẫn đờm.
Ông
chống tay vào cần đàn, vớ cây nạng gỗ, đứng dậy. Cạnh nhà vệ sinh công cộng, một
cái lỗ chó chui vừa khít người ông. Ông chui qua. Mấy hàng đường rầy ngoằn
ngoèo từ bóng tối chui ra. Tàu đêm sắp chuyển bánh.
Lập Phương
304Đen – llttm- OVV

No comments:
Post a Comment