TƯỢNG THƯƠNG TIẾC
Trong bài “Sài Gòn la de vài hột” tôi
có nhắc đến bức tượng người lính nhớ bạn đặt ở nghĩa trang Biên Hòa. Tác giả bức
tượng này là điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu.
Vũ Thế Thành
Ông Nguyễn Thanh Thu tốt nghiệp trường
Mỹ Thuật Gia Định. Khi được giao làm bức tượng trên, ông đang là Đại úy trong
quân đội Sài Gòn. Một hôm ông đến nghĩa trang quân đội ở Gò Vấp (nghĩa trang
Biên Hòa còn đang xây dựng). Ghé vào quán nhậu gần đó, ông bắt gặp người lính
Nhảy dù ngồi uống một mình, vừa nâng ly với một cái ly khác để trước mặt. Ông uống
với cái bóng của đồng đội vừa tử trận. Ông Thu bắt gặp được thần sắc của người
say nhớ bạn, chới cảm hứng. Khi về, ông liên lạc với đơn vị người lính, xin mượn
người lính này làm người mẫu để tạc tượng. Trong một bài phỏng vấn, ông Thu thuật
lại, có lúc ông phải nấp vào phòng khác, nhìn ra người mẫu, mới bắt gặp nét buồn
bã, đăm chiêu của người lính, như ông đã gặp ở quán nhậu. Bức tượng hoàn thành
năm 1966, ổng đặt tên là “Thương Tiếc”, và đặt ở cổng nghĩa trang Biên Hòa. Bức
tượng đoạt giải thưởng Tổng thống năm 1968. Trước đó, ông cũng có bức tượng
“Ngày Về”, cũng đoạt giải thưởng TT năm 1963. Cuối năm bức tượng được đúc đồng,
dựng lại chỗ cũ. Còn bản gốc bằng xi măng cốt thép lưu tại nhà ông.
Sau năm 75, bức tượng ở nghĩa trang
Biên Hòa bị kéo đổ. Bức tượng xi măng ở nhà ông cũng bị đập nát ngay sau khi
ông đi tù cải tạo ở Hàm Tân 7 năm.
Tượng “Thương tiếc không còn, nhưng
lòng thương tiếc vẫn còn!
Sau khi ra tù, ông vượt biên và định
cư ở Mỹ. Sau15 năm ông trở về VN, và cư trú ở sân vường nhỏ ở Gò Vấp. Tôi có
ghé đó uống cà phê. Cuộc chuyện trò với ông có đôi chút khó khăn vì ông bị mất
thính lực trong thời gian ở tù.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu vừa
mãn phần ngày 06/05/2025 tại Sài Gòn, thọ 92 tuổi. (Vtt)
SÀI GÒN, LA DE VÀI HỘT
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ (*)
Lần đầu tiên nếm mùi bia 33 là hồi
tôi mới đậu Tú tài. Thằng bạn và tôi rủ nhau đi Vũng Tàu, uống cà phê ở Bãi Trước,
ngắm biển và ngắm… người (nữ). Chưa biết nhậu nhẹt, nên chỉ có thế cho bõ công
đèn sách. Trên đường về lại Sài Gòn, thằng bạn rủ ghé ông anh nó đang đóng quân
đâu đó ở Biên Hòa. Đàn anh chơi đẹp, dẫn hai thằng đệ “tân khoa tú tài” đi nhậu
lề đường. Gọi bia 33, ba anh em nâng ly, nốc một nhát cạn. Nửa ngọt, nửa cay,
hương thơm, vị đắng. Bia mát lạnh, ngoài mặt nhăn nhó, nhưng trong bụng sảng khoái
vô cùng. Hồi lâu, ông anh ngập ngừng, Uống chút băm ba cho biết mùi đời.
Giữa tháng, anh hết “đạn” rồi, hai chú chịu khó làm tiếp “nước mắt quê hương”
cho… chóng lớn!. “Nước mắt quê hương” mà ổng nói là rượu đế.
Tình dang dở khó quên. Sảng khoái
dang dở cũng không ngoại lệ, huống chi đó lại là ấn tượng sảng khoái bia bọt
thuở ban đầu. Sau này đám bạn đi lính về phép, lại kéo nhau ra quán nhậu bù
khú. Ít tiền thì la de con cọp, nhiều tiền thì bia 33.
Bia 33 là loại bia sang nhất hồi đó
do hãng BGI sản xuất, và đây cũng là hãng bia duy nhất của miền Nam. Hãng chỉ sản
xuất chỉ có hai loại bia: chai lớn dung tích 66 phân khối và chai nhỏ, 33 phân
khối.
Ngôn ngữ thường được sáng tạo nơi bàn
nhậu, mà bàn nhậu đã sáng tạo thì không thể thay đổi. Chai nhỏ, dân nhậu gọi là
bia băm-ba, chẳng ai buồn gọi cho đúng “phép tắc” là ba-mươi-ba.
Còn bia chai lớn, gọi là la
de con cọp. Gọi thế là vì nhãn chai có in hình đầu con cọp lớn. Còn lade,
thì có người giải thích là do chữ Larue, tên của người sáng lập hãng, đọc nhanh
thành ra la de. Giải thích thế thì biết thế, nhưng nghe hơi gượng ép.
Bia 33 tuy nhỏ, nhưng có độ cồn cao
hơn, hương đậm và vị đắng hơn la de con cọp chai lớn. Tôi nhớ, giá bán hai loại
bia này cũng sàn sàn như nhau. Như nhau, nhưng thiệt ra đắt hơn, vì dung tích
chai bia 33 chỉ bằng một nửa so với chai bia lớn. Hồi đó, lính Mỹ thích bia 33
hơn bia Mỹ cũng vì hương vị đậm đà này. Cách nay vài năm ra nước ngoài chơi,
ghé vào hiệu sách, tôi thấy có quyển hồi ký của một trung úy Mỹ, đã từng có mặt
ở Việt Nam. Lướt thử vài trang, thấy chú GI này cũng nói đến bia 33, mà lính Mỹ
rất ưa chuộng.
Cái bóng đầu cọp in trên cổ chai là
logo của BGI, chai lớn chai nhỏ đều có. Dù chỉ là cái bóng, nhưng cũng đủ
cho các chú GI khoái chí gọi bia 33 theo tiếng lóng là “nước đái cọp” (tiger
piss). Anh lính viết hồi ký này còn bốc lên rằng, bia 33 được làm từ gạo.
Làm bia từ gạo chỉ đúng một phần
thôi. Về nguyên tắc thì ngũ cốc nào cũng đem làm bia được, nhưng trước khi lên
men, phải malt hóa chúng, nghĩa là ngâm nước để ngũ cốc nảy mầm.
Ngũ cốc nảy mầm mới tạo ra nhiều enzyme để cắt tinh bột thành đường. Từ đường mới
lên men thành bia (rượu) được. Trong các loại ngũ cốc, thì lúa mạch (barley)
tạo ra nhiều enzyme nhất. Làm bia không thể thiếu lúa mạch. Vì lúa mạch đắt,
nên người ta phải “độn” thêm các loại ngũ cốc khác sẵn có ở địa phương như lúa
mì, gạo, bắp… để giảm giá thành. Có thể hồi đó hãng BGI đã “độn” thêm gạo để
làm bia, nhưng chủ yếu vẫn phải là lúa mạch.
Những năm sau 75, hãng BGI rút về nước,
làm gì có đủ lúa mạch để làm bia. Phải độn thêm, rồi độn thêm nhiều ngũ cốc hơn
nữa. Nhưng ngũ cốc loại gì? Cơm gạo cho người ăn còn không đủ, thì gạo đâu mà
dành cho bia, không chừng còn độn bo bo, khoai bắp cũng nên. Bia Sài Gòn hồi đó
uống có vị ngai ngái. Ngai ngái, nhưng thuộc hàng quý hiếm trong những năm
tháng đó.
Dân Sài Gòn hồi đó nhâm nhi ly bia
ngoài quán hay vỉa hè cũng ít khi ồn ào, chỉ xù xì nói chuyện, nhìn phố người
qua kẻ lại, chứ không nâng ly cụng chén “dzô dzô”. Mồi đơn giản thường là đậu
phộng, hột vịt lộn, khô bò, khô mực… Nhậu “dữ ” hơn thì xài tới rượu đế, với
các món chiên xào bếp núc. Hạng cao cấp, sang trọng thì vô nhà hàng với Chivas,
“Ông già chống gậy”… Hạng này, miễn bàn. Còn thứ sinh viên như bọn tôi, dạy kèm
rủng rỉnh chút tiền, ra quán vỉa hè làm vài chai la de con cọp, sang hơn thì gọi
bia 33 cho ra cái vẻ… sành điệu vậy thôi. Chỉ có những thằng bạn đi lính, thứ
gì cũng uống, thức nào cũng ăn, già dặn trưởng thành sau những lần về phép thấy
rõ.
Mà có tiền nhâm nhi ly bia đã là khá
bảnh rồi, chứ của đâu mà uống cho tới xỉn. Nhưng có câu chuyện (thiệt) về cái
“thần” của người uống bia tới xỉn mà tôi đọc được, kể ra đây nghe chơi: Một
điêu khắc gia được yêu cầu tạc một bức tượng để đặt ở nghĩa trang. Ổng nghĩ
hoài không biết tạc cái gì, mới đi vào nghĩa trang quân đội (Sài Gòn) ở Hạnh
Thông Tây để quan sát tìm cảm hứng. Ghé vào quán nhậu gần đó, ổng bắt gặp một
người lính đang ngồi uống bia một mình, trên bàn đặt hai ly bia. Anh lính vừa
đi đưa đám bạn mình. Nâng ly, rồi cụng ly, rồi uống… Cứ thế, người lính uống với
cái bóng của bạn mình, cho tới khi gục xuống bàn. Nhà điêu khắc lặng lẽ quan
sát. Ông bắt được cái “thần sắc” nỗi buồn trên khuôn mặt, trên đôi mắt của người
say nhớ bạn… Bức tượng hoàn thành, được đặt ở nghĩa trang Biên Hòa. Hồi đó, người
ta đồn, đêm đêm bức tượng đến nhà dân quanh đó, gõ cửa xin nước uống… Sau năm
75, bức tượng không còn nữa.
Chiến tranh, đau thương mất mát buồn
lắm. Trải qua mới thấm.
Ngoài la de con cọp và bia 33 một
mình một chợ, tôi không thấy nhãn hiệu bia nào khác trên thị trường nữa. Bia
BGI một thời tung hoành, và nghe nói còn xuất cảng đi những đâu nữa đấy. Trên
nhãn bia 33, tôi còn nhớ ghi “Export”.
Sau năm 75, Sài Gòn đổi tên, con cọp
mất tích, chẳng ai còn nhắc đến la de con cọp một thời, nhưng nhãn hiệu bia 33
thì còn. Ông chủ mới chỉ thêm một con số 3 nữa, thành bia 333, thương hiệu còn
cho đến bây giờ. Dân Sài Gòn vẫn gọi đó là bia “băm ba”. Ba mươi ba dân
nhậu còn chả gọi, huống gì ba trăm ba mươi ba.
Thay chủ, thay tên thì chất lượng bia
cũng khác, nhưng chẳng ai phàn nàn. Bia bọt là hàng xa xí phẩm lúc đó. Chạy chọt
tem phiếu, chen lấn để mua được ly bia hơi thì cũng… tàn hơi. Có khi cửa hàng
còn bắt chẹt, phải mua kèm mồi. Uống rượu đế thì cay xè, vào nửa ly xây chừng
là bốc hỏa lên rồi. Nhưng sau 75, thì chẳng còn phân biệt gì nữa. Bia hơi
là deluxe, là premium quality. Thường nhật chỉ còn rượu
đế, rượu Cây lý, rượu Gò Đen… Bia thì là loại “bia lên cơn”, lên men từ vỏ
thơm, cùi khóm ruồi nhặng bu đầy… Uống chỉ để uống, uống để quên đời. Uống tạp
như thế, không hiểu sao giờ này vẫn còn sống để… viết.
Những năm đầu thập niên chín mươi,
tôi làm công việc dịch tài liệu và điểm báo cho một cơ quan xúc tiến ngoại
thương, chung với anh Phan Tường Vân. Làm từ trưa tới chập tối là xong, nhưng
hai anh em thường nán lại, bù khú với nhau. Chỉ một, hai chai bia Sài Gòn xanh
với hột vịt lộn, kéo dài có khi đến khuya mới về… Anh Vân là tiến sĩ kinh
tế ở Mỹ, trước 75 làm việc trong chính quyền Sài Gòn, nên bao chuyện thâm cung
bí sử cứ rù rì tuôn ra. Bia Sài Gòn nhạt, nhưng ký ức cứ chảy ngược, dòng đời vẫn
chảy xuôi. Anh Phan Tường Vân mất cũng hơn mười năm rồi…
Đời cọp thăng trầm từ sau 75, sống kiếp
lưu vong, cũng bị buôn qua bán lại nhiều đời chủ. Rồi đâu đó cũng cỡ đầu những
năm chín mươi, cọp quay lại Việt Nam. Cũng là tên hãng BGI, nhưng đã bán cho chủ
hãng bia khác, lớn hơn. Sài Gòn lạnh nhạt, cọp bèn về nương náu ở Mỹ Tho. Cọp
tái xuất giang hồ, nhưng dân Sài Gòn chỉ gọi là bia con cọp. Dĩ
vãng đã giữ chặt hai chữ La de mất rồi.
Bia Con cọp và La de có gì khác nhau?
Cũng chai nâu lớn, cũng đầu cọp, cũng Larue BGI, nhưng dân nhậu đồn rằng bia
con cọp uống vào nhức đầu. Nhức đầu là do nguồn nước ở Mỹ Tho không thích hợp để
làm bia? Tôi không biết nguồn nước có phải là nguyên nhân, và bia có thực sự
làm nhức đầu hay không. Nhưng với trò chơi thương trường thì điều gì cũng có thể.
Các hãng mua lại BGI cũng đều là hãng bia “đồng nghiệp” với nhau cả. Họ mua,
đâu chỉ là mua nhà máy, mà mua cả thương hiệu, kênh phân phối, phân khúc khách
hàng… Vẫn là con cọp, nhưng ruột cọp thế nào, chủ mới dư sức biến hóa công thức.
Hồi đó, miền Nam chỉ có duy nhất một
hãng bia là BGI, và BGI cũng chỉ có một nơi duy nhất để sản xuất bia nằm ở đường
Trần Hoàng Quân (nay là Nguyễn Chí Thanh, quận Năm). Bây giờ thì nhiều hãng bia
với cả vài chục nhà máy sản xuất, rót hơn bốn tỷ lít bia cho non một trăm triệu
dân, tính luôn đàn bà và trẻ em…
Cọp hồi hương làm khách nhức đầu thì
cọp cũng nhức đầu. BGI đổi chủ, rồi mới đây lại đổi chủ nữa cho một tỷ phú Thái
Lan, nhưng đầu cọp thì vẫn còn, thương hiệu 33 vẫn còn, thế nhưng văn hóa nhâm
nhi ly bia liệu có còn? “Con cọp” lạc lõng giữa văn hóa tiếp thị, chân dài chân
ngắn trong những quán nhậu đông người.
Bia ngon bia dở khó luận, nhưng chắc
trong bia có phần ký ức. Ừ, thì đôi lúc cũng phải la de vài hột,
rồi như khách giang hồ lục tìm trong ký ức, mới thấy đời người còn biết bao điều
dở dang, nuối tiếc. Có khác gì tiếng cuốc đêm hè đâu, phải thế không?
Vũ Thế Thành (trích từ sách “Sài Gòn, một
góc ký ức và bây giờ”, tái bản 2022)
304Đen – llttm - sgtc

No comments:
Post a Comment