BỨC TRANH CUỐI CÙNG
Căn phòng vẽ của anh hồi ấy chỉ có mình
anh ra vào. Mỗi lần bước ra, anh lại khóa chặt cửa. Sở dĩ như thế là vì anh ngấm
ngầm giận tôi. Suốt đời tôi sống nhẫn nhịn, vâng lời chồng, cưng con, chiều
lòng được cả họ. Vậy mà hôm ấy, tôi đã đánh thằng Hân gãy một cây roi dâu. Tôi
vừa đánh con vừa khóc như điên dại.
“Có gì nghiêm trọng vậy?”. Khi trở về, nhìn những
dấu roi trên tay thằng con, anh hỏi. Sau vườn nhà có một bọng đất sét, thằng
Hân đã lấy nặn thành tượng một người nữ lõa lồ, giữa hai bắp vế đầy vun nó còn
cẩn thận nhét vào một nắm tóc rối. Tôi mắng con “Mất dạy!”. Hân mếu máo: “Con
thấy sao thì làm lại y như vậy mà. Sau lưng nhà mình có mấy cô chiều nào cũng
xuống bến sông tắm”. Tôi nghẹn lời. Nó mới mười ba tuổi. Nhìn những mảnh tượng
vỡ, anh bảo: “Con rất có hoa tay. Nó còn nhỏ, biết gì là tốt xấu. Sao mình nặng
tay như vậy”.
“Động trời như thế mà anh còn xem là nhẹ?”.
Tôi không hiểu vẻ mặt tôi lúc đó thế nào mà anh quay người, bỏ vào phòng vẽ
đóng sập cửa. Tính anh vẫn vậy giống như sấm sét, khi bùng lên thì không sao dập
tắt nổi.
Thực ra đã lâu rồi, hai vợ chồng rất ít nói với
nhau. Tối đến, trước khi ngủ, tôi niệm kinh trước bàn Phật, những lời nguyện cứ
kéo dài ra, khi tôi vào phòng thì anh đã ngủ. Hồi mới cưới, anh thường trêu
tôi, bảo tôi trông giống cô bé không thuộc bài phải lên bục giảng. Sau này, mỗi
lần cố thức đợi tôi, anh không còn nụ cười âu yếm chế giễu ấy nữa. Vẻ chịu đựng
của tôi cuối cùng đã làm anh tự ái. Sau chuyện cái tượng của thằng Hân, anh rút
về bên phòng vẽ, ngủ luôn bên đó. Sau đó, chúng tôi đã trở lại hòa thuận, nhưng
anh cũng không quay về nữa. Tôi một mình, nước mắt nhiều đêm chảy ướt gối. Tôi
không hiểu điều gì xảy ra. Tôi yêu chồng, một lòng tận tụy với chồng. Vậy mà mỗi
lúc anh gần tôi, một nỗi ghê sợ tự thâm tâm làm tôi chùn lại, như con ốc thu
mình vào vỏ cứng…
Hai vợ chồng riêng giữ hai phòng đã là chuyện
bình thường trong suốt năm sáu năm. Thế rồi, một tối mùa đông bỗng anh vào
phòng tôi. Đã lâu tôi quen với những đêm thanh tịnh, nên thấy anh bước đến ghé
nằm vào bên giường, tôi lùi lại, cảm giác như người ăn chay lâu ngày ngửi thấy
mùi tanh thịt cá ở miệng chén. “Ba nằm đây thì để em ra phòng khách ngủ”. Nghe
nói thế, anh níu tay tôi: “Đừng, đừng, ngồi lại với anh một chút”. Anh phều
phào nói.
Lúc ấy tôi mới thấy bàn tay anh lạnh ngắt, và
mặt anh đỏ tía, mắt lạc thần.Tôi kêu thét lên. Những dấu hiệu của một cơn đột
quỵ. Vậy là cuối cùng anh đã quay về với tôi, không phải để sống, mà để chết.
Đêm nối cùng trước cửa phòng cấp cứu hồi sức,
tôi đứng lặng, gió lạnh phả từng cơn vào mặt. Gió buốt thấu xương, chẳng biết từ
đâu thổi lại? Hình thư cơn gió này đã theo tôi suốt một đời rồi. Bạn bè, bà con
đến. Tôi bảo: “Anh khá rồi, không sao”. Con trai tôi ngạc nhiên: “Bác sĩ bảo ba
con đã trụy mạch rồi. Mẹ không nhớ à?”. Tôi trào nước mắt, úp mặt vào vai con:
“Con đừng hỏi, mẹ xin con, để mẹ yên… Mẹ sợ lắm!”.
Tôi sợ. Anh đã quay về với tôi. Điều đó đối với
tôi có ý nghĩa lớn lắm. Tôi không muốn ai biết giờ chót của anh, sợ e có người
nào sẽ đến… Linh cảm đàn bà mách bảo cho tôi những điều chẳng lành… Đúng như vậy,
con trai tôi quay ra phía sau bệnh viện để lo thủ tục quay ra bảo tôi: “Ai vừa
vào thăm ba?”. Tôi giật mình. “Ai?”. “Con thấy một người quàng khăn đen che gần
hết mặt bước ra”. “Sao mẹ không thấy?”. “Mẹ quên à, phòng này còn có cửa sau”.
Anh trở về nhà trong chiếc quan tài phủ kín
hoa. Người ta lấy hết những bức tranh còn lại treo quanh chỗ anh nằm. Hân nhắc
tôi: “Mẹ à, trong phòng vẽ của ba chắc còn vài bức nữa”. Tôi nhớ, nhưng căn
phòng đã khóa. Nhiều người khuyên phá khóa ra. Tôi bảo: “Đừng”. Căn phòng đó là
thế giới riêng của anh, tôi đã cách ly nó với toàn bộ ngôi nhà khi anh còn sống.
Giờ đây anh vừa nhắm mắt, tôi sợ kinh động đến nó. Dường như tự thâm tâm, tôi sợ
nó sẽ nhập vào ngôi nhà, sẽ giành lại anh, anh giờ đây đã quay về với thế giới
của tôi…
Trong ba hôm, những vòng hoa ngập căn phòng
lung linh ánh nến. Sao những bông hoa này cũng tươi như hoa cưới của tôi ngày
xưa? Anh đang nằm đây, sát bên tôi, im lìm và thanh khiết, không gây cho tôi cảm
giác như khi ngửi chiếc chén của người ăn mặn. Qua tấm kính, khuôn mặt anh hướng
về tôi, mắt nhắm, thanh thản lạ lùng…
Tôi đưa anh đi. Trầm nhang xông ngát cả khu vườn
trước khi giàn cai đám vào rước anh. Hình như chưa bao giờ tôi cảm thấy rõ ràng
tôi là vợ anh bằng lúc này, cái cảm giác mà khi anh còn sống tôi đã không hề cảm
thấy.
Ngoài bờ rào, một người đàn bà bồng một đứa trẻ
đang hướng về phía tôi. Cô ta đang nhìn anh lần cuối, cũng như tôi khuôn mặt
dày nước mắt. Tôi run lên, vịn tay vào vai con trai bước đi. Cùng lúc hai nỗi
đau trùm lên tim tôi. Cô ta không quàng khăn che mặt nữa, khuôn mặt như phơi ra
trước những đôi mắt nhìn soi mói. Đứa trẻ trong tay cô ta ngước đôi mắt thơ
ngây nhìn ra chung quanh, chân tay nó khua khoắng không ngừng trong lòng mẹ. Một
tiếng “choang” vang lên, người ta đã đập vỡ cái bình gốm thô. Tiếng đập ấy nhằm
báo hiệu cho linh hồn biết chẳng còn gì để lưu luyến nữa và báo hiệu cho cả những
người sống biết từ đây cuộc đời đã chuyển sang một chặng khác rồi…
Ngoài bờ rào, người đàn bà và đứa bé vẫn đang
nhìn về phía tôi. Tôi cảm thấy rất rõ nỗi tủi hổ của họ. Cô ta đã xin bịt khăn
tang nhưng con trai tôi từ chối. Cô ta không có vị trí nào trong gia tộc của
chúng tôi. Tôi quay đi. Tôi đã ngậm đắng nuốt cay, nhẫn nhịn gần nửa cuộc đời
chỉ để hôm nay đứng ở vị trí này, danh chính ngôn thuận đưa chồng đi lần chót.
Một năm sau, khi nhận được giấy tòa án mời đến
tôi mới biết Thảo đã đưa đơn xin truy nhận cha cho con mình. Thần kinh tôi vừa
mới tạm dịu xuống chợt như đột ngột hoảng loạn. Bên tai tôi đột ngột nghe tiếng
“xoảng” khủng khiếp, tiếng xoảng xua đuổi linh hồn, tiếng của chiếc bình vỡ
tan.
Tôi chạy vào phòng mình, trùm chăn kín mặt,
nghẹn ngào lẩm bẩm: Anh đã quay về rồi mà? Anh đã quay về, ghé lưng nằm trên
chiếc giường, này anh là của tôi. Điều đó đối với tôi có ý nghĩa lớn lắm… Con
trai tôi đến ngồi bên tôi: “Mẹ nghĩ sao”. Tôi run run: “Con cứ bàn với luật sư,
mẹ không có can đảm nhắc tới chuyện này nữa”.
Tôi không ra tòa. Tôi biết Thảo bồng con đến
tòa nhiều lần nhưng vẫn chưa toại nguyện… Luật pháp đòi hỏi phải xét nghiệm DN,
mà muốn con trai tôi chấp nhận thử ADN cùng với đứa bé thì phải có bằng chứng cụ
thể thuyết phục được quan tòa… Nhưng sẽ không bao giờ có bằng chứng cụ thể… Chồng
tôi không lưu lại một dấu tích gì nói lên ý nguyện của anh về đứa bé…
Năm này tiếp năm khác trôi qua. Trên bàn thờ
anh, những cây thần tài trong lọ sứ đã vươn cao xanh ngắt. Năm tháng làm lòng
tôi dịu lại. Con trai tôi đã thi đậu kỳ thi công chức. Sáng sáng, tôi ủi sơ mi
và cà vạt cho con đi làm, nóng lòng mong con sớm có người chăm sóc. Một đời nữa
sẽ sống trong ngôi nhà này… Từ khi anh mất đi, các gallerie càng ráo riết tìm
mua tranh của anh, dường như những bức tranh ấy là một gia tài mà anh đã để lại
để chuộc những nỗi đau anh đã không tránh được cho chúng tôi khi còn sống…
“Con nghĩ là trong phòng vẽ vẫn còn một số
tranh nữa” – con tôi nói.
Không còn cách gì hơn và phá ổ khóa, bởi chìa
khóa đã mất tăm không ai tìm được. Cánh cửa rít lên mở ra nơi ẩn náu cuối cùng
của anh, với những đồ đạc trong phòng: chiếc ghế đẩu mà anh ngồi vẽ, chiếc sofa
đơn độc mà anh nằm năm xưa. Cả giá vẽ cũng phủ đầy bụi… Chừng mười bức tranh
còn nằm trên vách, trong những bức tranh ấy những người đàn bà hiện ra với hoa
trái và chim câu, với sông với suối… Rất nhiều người nữ nhưng chỉ có một khuôn
mặt.
Trên giá vẽ vẫn còn bức tranh cuối cùng. Cũng
khuôn mặt người nữ ấy, trong trạng thái nguyên sơ, với thân thể mịn màng sáng
chói giữa hai bên là mặt trăng, mặt trời tỏa rạng. Da thịt ấy được thể hiện như
suối như đồi, từ đó mọc lên những cây xanh đầy hoa trái… Một thứ ánh sáng rực rỡ
và huyền nhiệm phủ khắp trên bức tranh, khiến sự trần truồng không hề mang vẻ
dung tục, mà chứa đầy sức cuốn hút từ cội nguồn sự sống.
Tôi khựng lại, từ từ ngồi xuống chiếc sofa.
Tôi nhìn xuống tấm thân mảnh khảnh của mình, bỗng như thấy lại những tháng ngày
rất xa, xa lắm, khi anh còn nhìn tôi bằng ánh mắt âu yếm chế riễu và bảo tôi là
cô bé trả bài chưa thuộc… Trời cho tôi không ít hơn cho những người đàn bà
khác, vậy mà tôi lại để hoang hóa cánh đồng của mình đến suốt một đời. Đâu phải
lỗi tại tôi, mà tại một mặc cảm gì đó sâu thẳm lắm đã ở trong tôi từ thời thơ dại…
Hân đến ngồi bên tôi. Tôi mở mắt bảo con: Những
bức tranh này không phải của mình rồi có ngày mẹ và con sẽ đem vào trong ấy cho
cô Thảo.
Hân ngạc nhiên:
– Việc gì phải thế. Cô ấy chẳng có quyền gì cả!
Tôi nhẹ nhàng, xót xa:
– Nếu không có người đàn bà này ba con có vẽ
được không?
Hân quay lại, phóng một ánh nhìn ghê sợ lên bức
tranh khỏa thân. Tôi chợt nhớ tới pho tượng đất năm nào nó nặn ra mà tôi đã đập
tan. Có phải khi tôi còn thơ ấu cũng đã có ai gieo vào lòng tôi nỗi ghê sợ truyền
kiếp đối với xác thịt con người?
***
– Mùa hè năm sau, thấy khỏe trong người, tôi
vào Sài Gòn chơi nhân dịp thăm Thảo.
Hai mẹ con Thảo sống trong căn phòng chung cư
nhỏ trên tầng năm. Tôi đến rất sớm vào sáng chủ nhật, đứa trẻ còn ngủ. Một đứa
con gái chừng lên sáu có vầng trán cao với đôi lông mày thanh thoát. Trông đứa
bé nằm, khuôn mặt ngăm ngăm, mái tóc quăn quăn, cái cằm và đôi môi ngang ngạnh,
tôi bỗng nhớ đến cảm giác mỗi lần nhìn anh nằm ngủ – như sấm sét còn ngủ trong
lòng đất.
Tôi ngồi bên Thảo. Hai chúng tôi đều muốn nói
nhưng chắng, biết nói gì. Tất cả đã qua rồi… Không còn gì thay đổi được nữa.
Không, có một điều: Tôi nói với Thảo, tôi đã khuyên con tôi đồng ý cho thử ADN.
Trái với điều tôi chờ đợi, Thảo nín lặng một
giây, rồi bảo tôi:
– Cảm ơn chị. Ngày ấy em đã vội vã quấy rối cuộc
sống của chị. Lẽ ra em phải để cho chị được yêu như ý nguyện của anh lúc còn sống…
Tôi cúi xuống, không muốn Thảo nhìn thấy đôi mắt
đỏ. Nhưng Thảo không nhìn tôi:
– Lúc ấy em cứ vội vì sợ cháu sẽ đứt lìa với
nguồn cội của mình… Nhưng bây giờ thì em nghĩ lại rồi, không cần phải thử ADN nữa!
Tôi giật mình. Điều gì đã xảy ra? Thảo hiểu ý,
bảo tôi:
– Vì cháu đã bắt đầu vẽ.
Cô kéo tấm màn che vội ở cuối giường, để tôi
thấy những bức vẽ màu nước nhỏ ngổn ngang trên nền gạch cũ mòn vẹt. Những bức
tranh với màu sắc rực rỡ và mạnh mẽ. Thảo đã tin ở điều gì, tin rằng những bức
tranh này chứng minh với người đời rằng những gien của anh đã truyền qua đứa
bé? Hay tin là rồi đứa bé lớn lên sẽ tự làm lấy cuộc đời mình, không cần ấn chứng?
Tôi cúi nhìn khuôn mặt thơ ngây và hai bàn tay
nhỏ mở ra trong giấc ngủ. Những vân hoa hiện rõ trên tay đứa bé, cũng như trên
tay con tôi ngày xưa. Ngày xưa…
Tôi thở dài, đã bao nhiêu nước chảy qua cầu từ
hai tiếng ngày xưa, ngày mà tôi còn có anh.
Trần Thùy Mai

No comments:
Post a Comment