HỌC TRÒ QUA SÔNG
Ngày ba nó cưới vợ nhỏ, ổng ép má nó
phải tới dự đám cưới: “Tới đám cưới tao mày phải vui vẻ, có thái độ gì thì đừng
có trách tao!”. Vậy đó, ngày ba nó cưới, má nó phải cắn răng chịu đựng nghe
theo. Cưới xong ba nó về lấy hết đồ đạc đem đi, lúc đó căn nhà của mấy má con
chỉ còn lại bốn bức tường cùng một không gian trống rỗng…
Sau những ngày dông bão, bà Hai, người
phụ nữ với cái tên mà người ta hay gọi là “bà chủ vợ ông chủ nhà may nghệ thuật
Cà Mau” đã trở thành người lao công quét đường.
Như thường ngày, khi ánh đèn phố bật
sáng khắp con đường chùa Bà, là lúc Út Cường cùng cây chổi tre cao hơn đầu, nó
ráng vói cán chổi xa hơn để quét cho xong sớm rồi còn qua phụ má nó quét những
con đường khác! Năm mới, tết sắp tới, cả thành phố người ta náo nức đi mua sắm,
những đứa trẻ trạc tuổi lớp 6 như Út Cường được ba má chúng chiều chuộng đủ thứ!
Vậy mà, có đứa còn nũng nịu khó ưa chê thứ này, đòi thứ khác… Út Cường dừng chổi,
nó ấm ức khi nghĩ lại cách đối xử của ba nó đối với mấy má con, càng nghĩ nó
càng thương má, thương má vì má nó hiền lành nên hay bị ba nó đánh đập, ba đẩy
má nó vô cảnh đời một tay nuôi bốn đứa con bằng đồng lương lao công ít ỏi nên
má nó phải quảy thêm gánh hàng rong đi bán.
Nghèo không phải là cái tội, quét đường
cũng là một công việc như những công việc khác, vậy mà bạn bè cùng lớp có đứa lại
khinh rẻ chế giễu nó, nhiều lần Út Cường muốn chết đi để quên hết những cái miệng
đời, và mỗi lần như vậy thì nó lại nghĩ tới câu chuyện xưa của ngoại nó nên nó
trấn tĩnh lại được.
Ngày trước ông ngoại nó là con trai
nhà chủ điền giàu có nhất vùng, bà ngoại là người ở đợ, hai nguời bén duyên
thương nhau, khi bị gia đình phát hiện và ngăn cản, ông ngoại đã dẫn bà ngoại bỏ
trốn xuống U Minh Hạ, ngày đó U Minh Hạ có rất nhiều cá sấu, cọp, rắn… Mặc kệ sự
nguy hiểm, để được sống bên nhau, ngoại đã sống một cuộc sống hết sức bình dị
cùng với rau rừng cá sông mà quá đỗi hạnh phúc…
Cứ mỗi lần nghĩ tới ngoại là Út Cường
hay cười thầm một mình bởi những câu chuyện về bác Ba Phi mà ngoại kể rất vui,
người ta trèo lên cây ớt bị té gãy chân thì cũng lạ, rồi cả chuyện rắn tát cá,
cọp xay lúa, heo đi cày… Đang chìm trong những câu chuyện của ngoại thì bỗng
hai người đi dạo họ dừng chân nghỉ giải lao, họ kể cho nhau nghe một câu chuyện
khác có vẻ huyền bí: “Dòng sông này linh lắm, nghe nói có hai người thợ lặn xuống
nước bắt cá, sau khi lên bờ thì cả hai người đều bị câm, nghe người ta đồn rằng
dưới lòng sông trước chùa Bà có hang cá bống mú rất lớn…”.
Nghe xong câu chuyện của người đi dạo,
Út Cường nhìn ra phía sông, nó cảm thấy lạnh người nên nó vội vác chổi qua chỗ
má nó đang quét, nó còn vừa đi vừa niệm “Nam mô A Di Đà Phật”.
Út Cường khuôn mặt lấm lem, một tay
nó cầm cán cây chổi vác trên vai, một tay cầm cái bọc đựng ổ bánh mì, nó bước lẹ
tới chỗ bà Hai:
– Má ơi! Má nghỉ tay chút, má ăn cái
này đi!
Bà Hai hỏi:
– Con lấy đâu ổ bánh mì đó? Má đã nói
nhiều lần rồi là không được nhận đồ của người lạ cho mà!
– Không! Ổ bánh này là của cô Bảy nhà
ở gần chùa Bà cho con đó!
– Con nói thiệt không?
– Con nói thiệt mà má!
– Vậy con ăn đi, má không đói!
– Má, con biết là má đói bụng rồi mà!
Má ăn đi má…
Phố đã về khuya nên trở nên vắng lặng,
gió xào xạc lay những chiếc lá rơi xuống vệ đường, ánh đèn làm nghiêng ngả chiếc
bóng bà Hai và đứa con trai dáng vẫn liêu xiêu cùng cây chổi tre giữa màn đêm,
tiếng chổi tre của họ là những âm thanh quen thuộc ở phường 2.
Gió chướng năm nay thổi mạnh hơn mọi
năm, Út Cường có cảm giác bâng quơ bởi không khí những ngày giáp tết, nó nghĩ
không biết là gió thổi một vùng trời Cà Mau, thổi trên nóc nhà của mấy má con
hay thổi khắp mọi nơi. Nhắm mắt lại ao ước, nó ước cho má luôn được khỏe mạnh
và mong ba nó ở hẳn bên nhà dì đừng có về, mỗi lần ba nó về nhà là có chuyện,
ba nó luôn vũ phu với má nó! Điều ước thì ước bỏ đó thôi chứ má nó vẫn còn
thương ba nó lắm! Chính vì vậy mà chòm xóm người ta nói kiếp trước má nó mắc nợ
ổng nên kiếp này cứ nhẫn nhịn hoài.
Mỗi năm, cội mai già trước sân đều trổ
bông sớm, tuy vậy, trong ngôi nhà của mấy má con bà Hai vẫn đầy ắp không khí tết!
Bà Hai đứng nhìn bốn đứa con loay hoay mặc thử mấy bộ quần áo cũ mà người ta
cho. Mỗi khi vui hoặc buồn bà Hai thường ca vài câu vọng cổ hơi thiệt dài mà
không cảm thấy mệt. Thấy vậy, Út Cường hỏi:
– Má ca hay giữ heng! Mà chèng ơi, sao ngày xưa má không đi
theo đoàn cải lương?
Bà Hai kể:
– Ngày đó ngoại không muốn má và các
cô cậu theo gánh hát, ngoại nói cái nghề đó lênh đênh, tình duyên thì lận đận lắm…
Nói xong khuôn mặt bà Hai buồn thẳm,
có lẽ bà nghĩ bà không theo gánh hát thì cũng vẫn lận đận chuyện tình duyên đó
thôi… Trầm tư một lát, bà Hai xuống góc bếp lấy mấy xấp lá ra lau để chuẩn bị
gói nồi bánh tét, thỉnh thoảng bà lại cất lên một đoạn vọng cổ bài Đêm khuya
trông chồng: “Trồng trầu thì phải khai mương, làm trai hai vợ sao anh thương
không đồng…”.
Thời gian đã phủ bạc trên mái đầu bà
Hai! Thời gian không chờ đợi ai bao giờ! Người lớn trở thành người già, trẻ con
rồi ai cũng phải lớn lên và Út Cường đã vô học ngành sư phạm. Với bà Hai, niềm
vui lớn nhất là thấy các con mình mạnh giỏi. Bà hay nhắc các con của bà chính
là phép màu ban cho bà nghị lực để tồn tại. Phận đàn bà có mấy ai lấy chồng mà
đều được trọn vẹn đâu! Phận gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu, mỗi người
đều có một số phận riêng…
Năm tháng qua đi, giờ ở thành phố này
đã đổi thay nhiều thứ, chỉ duy nhất con đường chùa Bà là không mấy khác. Chiều
nay, có ai nhận ra người thầy đang bước lang thang trên con đường chùa Bà chính
là cậu bé quét rác ngày trước!
Mỗi lần về thăm quê, thầy Cường hay
trở lại con đường cũ để kiếm tìm lại miền ký ức, được ngắm nhìn vùng trời bình
yên quê mình đổ những vạt nắng vàng xuống dòng sông trước chùa, thỉnh thoảng có
những con chuồn chuồn nghỉ mệt đậu trên khóm cỏ mọc dưới bờ kè.
Khắp cả vùng trời Cà Mau gió chướng vẫn
đang thổi, lá cây vẫn đang rơi xuống vệ đường, tiết trời những ngày giáp tết thật
đẹp, sắc xuân cũng đang tô điểm trên những nhành mai, bông cúc, và có vài người
xa quê lâu năm đang hỏi thăm địa chỉ người thân khi trở về quê cũ…
Tất cả đã và đang là những gam màu vẽ
lên bức tranh cuộc sống của người thầy xa xứ, người lái đò vẫn thầm lặng từng
ngày đưa các trò của mình qua sông.
Trà Bình
304Đen – llttm – Văn Việt

No comments:
Post a Comment