Saturday, August 30, 2025

Đường Trần Ai - Nguyễn Cang & Về Với Nhau - Diệp Văn Xướng Họa

  Thơ Nguyễn Cang và bài họa của Diêp Văn.

 



















ĐƯỜNG TRẦN AI

( nđt)

Chốn cũ tiêu điều ngập cỏ cây

Chiều mưa ướt đẫm mảnh vai gầy

Lần đi chỉ nghĩ tình ngăn cách

 Ngõ vắng quay về, cuộc đổi thay

Thuở ấy đau lòng nên vội vã

Giờ mang nỗi nhớ lại đong đầy

Trần ai cửa khép đời vô định

Bạn hữu duyên tròn cảm xúc đây!!!

Nguyễn Cang (  Aug. 23, 2025)

Bài họa:

VỀ VỚI NHAU

( nđt)

Băng ngàn vượt suối giữa rừng cây

Nhạn nhẩn nha luồn vỗ cánh gầy

Vẫn lối đường quen từng dặm đổi

Muôn nhà ngõ lạ khép dần thay

Nhìn theo khói mỏng chiều lam nhạt

Lắng dõi làn mây tán tụ đầy

Đến ở bên nàng qua vạn ngã

Vui buồn-Lặng lẽ-Nói gì đây!?!

Aug 26,2025

Diêp Văn.

 

Phận Đời Của Đời - Thuyên Huy

 

PHẬN ĐỜI CỦA ĐỜI

Để nhớ một câu chuyện cũ, thương cho một người

 


1

    Ngồi lặng im trên cái ghế, kê gần tủ thờ ông bà giữa nhà, nghe ba tôi kể lại câu chuyện mà tôi muốn biết của hơn mười mấy năm trước đây. Giọng ông trầm trầm, má tôi ngồi trên bộ ván gỏ nung bên cạnh, đăm chiêu nhìn, không thêm không bớt lời nào. Mới xế trưa mà ễnh ương đã kêu dài ngoài đám ruộng sau vườn, cây bưởi góc sân rụng đầy hoa trắng.

    Tách nước trà cạn dần theo từng lời ông nói. "sau khi đứa con đầu và duy nhứt của ba má bị bệnh chết trên tay của má con, sau hai đêm ở bệnh viện quận, trên đường từ Gò Dầu xuống Sàigòn vào bệnh viện. Má con buồn bả như người mất hồn, ba quyết định đi xin con nuôi. Nghe vài người quen chỉ, ba lên Tây Ninh, tìm trúng nơi nhà cô tư Hòa. Ba kể lại chuyện và cuối cùng cô tư đồng ý cho con làm con nuôi. Gia cảnh cô tư hay má ruột của con lúc đó có vẻ thiếu thốn. Ba nhận ẳm con về, gởi lại cho cô tư một số tiền, số tiền này tuy không nhiều, nhưng trong thời buổi đó tiền có giá lắm. Hôm đó cả nhà mẹ ruột con khóc sướt mướt. Ba có hứa với cô tư khi con hai mươi tuổi, vào đại học, ba sẽ cho con biết chuyện này, giờ thì con hỏi, thôi cũng đến lúc con cũng cần biết, đó chuyện là như vậy”.

    Ba tôi ngưng ở đó, má tôi kéo vạt áo bà ba xám lên lau mắt. Cả ba người lặng thinh, tôi cúi đầu khóc rấm rứt, không dám ngước nhìn lên như một tên tội đồ phạm thượng. Má tôi bước xuống ván, chậm rải đi về phía bên hông tủ thờ, mở cái hộp thiếc cũ, lấy ra tấm hình đen trắng, giấy in đã ngã sang màu vàng đục, bà đến gần đưa cho tôi, tấm hình chụp lúc tôi vừa về nhà ông bà, tròn ba tuổi.

    Bà vuốt đầu tôi nhè nhẹ:

- Chuyện gì mặc chuyện gì, con lúc nào cũng là con của ba má.

    Tôi không kềm lòng được nữa, òa lên khóc nức nở, ba tôi vẫn ngồi yên trên bộ ván:

- Chuyện là vậy đó, bây giờ tùy ở con, hồi nhỏ ba má thương con bao nhiêu thì bây giờ ba má cũng vẫn thương con bấy nhiêu. Cả đời này con vẫn là con của ba của má.

    Nghe ba tôi nói đến đây, má tôi cũng kềm lòng không nổi, bà nắm tay tôi khóc ròng. Tiếng ễnh ương vẫn còn kéo dài ngoài ruộng, trời sắp về chiều. Anh năm Thương tay xách đục cá từ phía sau vườn bước vào, má tôi một lần nữa kéo vạt áo lên lau mắt. Ba tôi lúc bây giờ mới bước xuống ván, anh năm Thương không để ý gì, nhìn tôi cười thoải mái hỏi:

- Mai chừng nào em đi?

- Dạ chắc độ chín mười giờ. Tôi trả lời mà không nhìn anh vì mắt tôi vẫn còn đỏ hoe mắt.

   Anh năm đi ra rồi, tôi đưa tấm hình lại cho má tôi, nắm tay bà nghẹn ngào:

- Con xin lỗi ba má là đã hỏi chuyện này, làm ba má buồn, ba má suốt đời vẫn là ba má của con..

*

    Ba tôi bưng tách nước trà lên, uống một hơi rồi cười thật tươi dù cười không thành tiếng. Nhà tôi ăn cơm chiều trễ hơn ngày thường, dù cho chị năm Thương thúc hối ba lần bảy lượt, chị cứ sợ để lâu mấy con cá lóc mà anh năm bắt về từ xế trưa không còn tươi ngon nữa. Tôi thao thức một mình trong bóng đêm, cố dặn lòng đứng để con sông đời mình có ngỏ rẽ. Tôi chợt mình thức giấc, có tiếng ba tôi tằng hắng ngoài sân sau, trời đã hơn sáu giờ sáng. Ở một góc nào đó, cạnh bờ rào, tiếng dế gáy vang rân. Hình như đêm qua không có tiếng súng.

    Rồi cũng như mọi lần, ba má đưa tôi ra bến tàu, trên sông sương mù giăng kín, tàu ra xa khỏi bờ, bóng ông bà mờ mờ trong màn sương, nước mắt tôi ứa ra, chưa bật thành tiếng khóc.

*

    Sàigòn mấy ngày nay không thấy mưa, nắng nóng chang chang, đường phố mịt mù bụi. Vài hôm nữa thì trời vào hạ, chiến trận ngày càng tăng dần, không thấy dấu hiệu gì giảm bớt. Đám bạn ngày xưa giờ đã chết cho chiến trường gần phân nửa. Nghĩa trang có thêm nhiều bia mộ mới, trắng một màu vôi. Chiếc xe tang, khăn sô góa phụ, tang khăn trắng con thơ giờ trở thành cái gì quen thuộc trên đường phố Sài Gòn hay con lộ đất ngoại ô. Trong cái không khí ngột ngạt của cuộc chiến không hẹn ngày an bình, Sài Gòn vẫn vội vàng sống, dù người đã nhập cuộc hay kẻ còn đứng bên lề. Đôi lần tôi chợt nhớ đến đám bạn cũ, nhớ cái kỹ niệm vui buồn bất chợt của những ngày mới tập làm thơ thương vay khóc mướn, những ngày chập chửng yêu, chạy xe Honda lên xuống qua lại nhà ai đó không dám vào, không dám ngỏ, những ngày ngồi yên lặng cả giờ đồng hồ trên đồi, nhìn trời xa xa, mơ một ngày mai công thành danh toại.

*

    Chiều thứ sáu, sau giờ học cuối, Tùng, thằng bạn ở cùng nhà trọ, qua phòng thí nghiệm của trường Phú Thọ tìm kiếm gì đó, buồn quá, tôi đón xe buýt ra chợ Sài Gòn. Đi lòng vòng cũng không thấy gì vui, tôi bỏ đến ngồi uống cà phê tại quán vắng bên lề đường Lê Thánh Tôn, nhìn kẻ qua người lại trong cái nắng chiều thoi thóp, đổ dài theo từng chiếc lá me bay. Chợt dưng tôi nhớ Bến Cầu vô hạn, nhớ cái giọng trầm trầm mà ba tôi kể lại chuyện của mười mấy năm xưa, để trả lời cho câu tôi hỏi, nhớ tấm hình đen trắng chụp ngày tôi mới lên ba, mà má tôi đã nâng niu như bảo vật trong suốt gần hai mươi năm trời. Tôi nuốt chửng ngụm cà phê thật nhanh để lòng mình không kịp khóc, nhưng đôi giọt còn đọng lại trên môi nghe như mằn mặn.

    Trả tiền xong, vừa lửng thửng định băng qua đường, thì gặp Thảo, cô bạn gái thân và cũng là người tôi thương, đang học bên trường Luật, từ những ngày còn ở trường tỉnh, gia đình khá giả, có bà chị  hai đang là chủ một cửa hàng mỹ phẩm ở thương xá Eden, từ hướng tòa Đô chánh đi tới. Thảo ngạc nhiên thốt lên:

- Ủa anh Hiển, làm gì ở đây?

    Tôi gật đầu chào, chưa trả lời thì Thảo tiếp lời:

- Em từ tiệm bà chị, từ đàng đó lại, định đi kiếm chè bánh lọt về ăn.

    Tôi không thấy vui trong lòng, ráng gượng cười:

- Thảo hết giờ học sớm vậy sao?

- Có anh đây, thôi mình lại tiệm đi, rồi tính đi đâu thì đi, như vậy vui hơn. Thảo nhanh

 nhẩu nói.



*

     Thảo bỏ đi trước, tôi chầm chậm theo sau. Phố đông người và lá me vẫn cứ lả tả rơi. Về đến tiệm, tôi chỉ kịp chào bà chị thì Thảo tủm tỉm cười đứng trước cửa làm dấu đi. Tiệm đang có hai ba người khách bước vào, bà chị đành nhìn theo mà không nói thêm gì được. Băng qua mấy cái ki-ốt nhạc trên đường Nguyễn Huệ, tôi đứng chờ cô nàng đi lại chỗ giữ xe gắn máy lấy xe. Từ đầu này nhìn về bến Bạch Đằng, phía bên kia sông Sài Gòn chiều bắt đầu xuống thấp dần, mây lưa thưa từng cụm tím ngắt. Theo lời Thảo, hai đứa chạy xe Honda ra Phú Lâm ăn hủ tiếu Nam Vang Kim Tháp. Quán đông nghẹt người, chúng tôi chọn cái bàn ngoài mái hiên, nhìn ra quốc lộ Bốn đi miền Tây. Gió chiều thổi ngược về, thơm mùi rạ khô của mấy cánh đồng, chạy dọc theo đường làm tôi chợt nhớ nhà quá, tôi ngồi trầm ngâm nhìn xa xa, tôi quên mất cái cười mà tôi có thường ngày, chuyện của đêm nào ở Bến Cầu đã làm cho hồn tôi cứ ray ray rứt rứt.

     Thảo ngài ngại nhìn tôi, trong khi chờ người bán hàng bưng hủ tiếu tới:

- Anh Hiển hôm nay sao thấy buồn vậy? Em có làm gì để anh giận không?

     Tôi cố vui đáp:

- Đâu có gì đâu.

    Tôi ngưng ở đó, không dám nói gì thêm vì mắt tôi đã rươm rướm đỏ.

    Cả hai, ai nấy đều ngồi lặng thinh. Chờ chị bán hàng bưng hai tô hủ tiếu tới xong rồi bỏ đi, tôi đành xuống giọng vì không thể dằn lòng khi nhìn Thảo buồn rười rượi.

- Thôi mình ăn xong đã.

    Thảo thở phào. Mặt trời chỉ còn ửng đỏ hơn phân nửa ở phía bên kia cánh đồng. Gió thổi nhẹ vào mái hiên quán ăn, bắt đầu lành lạnh.

*

    Người bán hàng một lần nữa, bỏ đi sau khi đặt ly cà phê sửa đá trên bàn. Tôi bưng ly lên uống vài ngụm nhỏ, mùi thơm cà phê làm tôi có phần tỉnh táo và dể chịu. Thảo nghiêm nét mặt chờ. Tôi chậm rải kể “câu chuyện đời mình, chuyện của một thằng bé bị cho đi từ năm mới lên ba và cho đến hơn mười mấy năm sau mới biết sự thật. Tôi kết thúc ở đoạn ba má đưa ra cầu tàu Bến Cầu”, môi tôi mằn mặn, không ai nói lời nào. Lờ mờ qua ánh đèn điện vừa lên, Thảo ôm mặt rấm rức, mắt đỏ hoe, hai người cùng nhìn một phía ngoài quốc lộ, giờ này đường vắng tanh. Bất chợt mưa về ngang hết sức tình cờ, một cơn mưa lẻ loi trái mùa.

    Trên đường về, không ai nói câu nào, về lại nhà trọ, Tùng đứng lang thang trước cửa vẫy tay chào, Thảo đi rồi, Tùng nhìn tôi ngài ngại. Phố bắt đầu vào đêm, nhà bên cạnh có tiếng đứa con gái quen hát nho nhỏ bài  tình ca nào đó.

 

2

    Tôi về Tây Ninh vừa kịp lúc nhìn mặt cô tư Hòa lần cuối. Được tin cô mất, tôi bàng hoàng nhưng không đau đớn lắm như mình tưởng. Tôi cũng không hiểu tại sao dù biết là má ruột của mình. Hình như trong đời tôi cái hình ảnh người mẹ thân cò một nắng hai sương khó tìm được ở cô tư. Những lằn nhăn trên trán của cô tư khi ngồi trước hiên nhà không làm tôi nhớ tôi thương tôi lo bằng lo cho vết nhăn trên mặt của má nuôi tôi, khi bà đứng hong tóc trắng bay lòa xòa, trước gió chiều về muộn sau vườn. Tiếng ho khan vội vàng của cô tư trong giấc ngủ giữa ngày không làm lòng tôi quặn đau bằng tiếng ho đứt quãng của má nuôi tôi trong những đêm mưa chập chùng cuối tháng sáu. Cái tình cảm mẹ con của cô tư và tôi, dù đã cố gắng kéo lại gần nhưng dường như vẫn còn xa xăm quá. Hình như mỗi lần nhắc tới quê mình thì tôi vẫn nói về Bến Cầu hơn là Tây Ninh.







*

    Cái chợ nửa quê nửa ruộng Bến Cầu đó, luân lưu một cách êm đềm, thắm thiết trong từng mạch máu, trong thân thể tôi như những con rạch nhỏ, rạch cùn suốt đời chảy ra sông lớn. Quấn vội cái khăn tang trắng trên đầu, tôi đứng lặng im một mình trước quan tài đặt giữa nhà, nơi mà tôi đã ngồi bật khóc một cách ngỡ ngàng khi nghe cô tư cho biết bà là má ruột. Người đến thăm viếng và phúng điếu bắt đầu đông hơn, tôi đưa tay vuốt nhẹ trên quan tài, môi tôi có chút nước mắt vừa đủ mặn.

*

    Má ruột tôi ra đi rất bình thản vì nghẽn mạch máu tim bất thình lình sau hai hôm nằm trong bệnh viện tỉnh. Từ ngày xuống Sài Gòn, tôi ít khi về lại Tây Ninh, nên tôi không thường ghé thăm bà, ngay cả những lần về Bến Cầu cũng là vội là vàng. Gia đình đem má ruột tôi về chôn ở một nghĩa địa nhỏ, cuối đường lên chợ quận Phước Ninh, cách khu Cao Xá, làng Công giáo di cư từ những năm 54, một khoảng đồng cỏ mọc đầy hoa cải dại, vàng hực trong cái nắng chang chang của trời giữa hạ. Rồi cũng có tiếng khóc, có mấy cành hoa Huệ trắng, có tiếng cầu kinh và nấm mồ đấp vội vàng như những đám tang bình thường. Người đưa đám đứng vòng quanh nấm mồ, nhìn ông linh mục già làm dấu Thánh giá lần cuối cùng rồi tản lần ra và thưa dần. Chiếc xe tang chở theo ông linh mục chầm chậm chạy ra hướng đường cái rồi khuất dần sau hàng cây thốt nốt đầu chợ quận.

*

    Người còn lại không ai nói với ai câu nào, lặng thinh như cái lặng thinh của nấm mồ mới đấp. Ở một ngọn cây già giữa đồng, con quạ đen đậu đó không biết từ bao giờ, bất chợt kêu lên từng tiếng kêu rời rã. Về đến nhà, tôi xếp cái khăn tang nhét vội vào túi xách, từ giã những ai có mặt tại nhà rồi hối hả xuống bến xe, kịp đón chuyến xe đò cuối về Sài Gòn. Mây xám xuống thấp ở một góc trời bên kia sông, nắng bắt đầu dịu dần theo bóng chiều vừa xuống. Xe đò rời phố chính qua cầu, tôi cố nhìn lần nữa qua khung kính sau, hàng cây ô môi hai bên đường lên nhà má ruột tôi nhỏ dần rồi mất hút. Con sông chia đôi thành phố bên đục bên trong, hình như cứ đứng yên một chỗ lâu lắm rồi, dù bây giờ đã là nước lớn, tôi rời Tây Ninh trong niềm đau khó tả.





*

    Trời bỗng dưng sẩm tối rồi đổ mưa hết sức bất ngờ khi xe đò vừa tới đầu ngã tư Bảy Hiền. Sài Gòn chập choạng vài đêm, phố xá thong thả lên đèn trong bóng mưa mù mờ pha chút nắng chiều rớt muộn. Tôi lần theo hàng cây bên đường trốn mưa, đi về phía quán cà phê quen sau khi xuống xe ở đầu ngã tư Trần Quốc Toản, thay vì đi thẳng về nhà. Học trò tan trường vẫn còn tụm năm tụm ba bên góc phố, đếm mưa chờ xe buýt đến. Chọn một cái bàn vắng gần hiên quán nhìn ra đường, tiếng nhạc nhè nhẹ vừa đủ át tiếng mưa, vô tình tí tách ngoài sân. Tôi làm dấu gọi cà phê, cô chủ quán gật đầu không cần hỏi lại. Mưa cứ mưa chập chùng vội vã, nước từng đợt hắt tung tóe xuống đường tưởng chừng như muốn trút giận trút hờn lên những ngày qua nắng bụi. Cô chủ quán, cũng như thường lệ, không quên hỏi tôi mạnh khỏe sau khi đặt ly cà phê trên bàn, tôi chưa kịp trả lời thì cô đã đứng chờ hai ba cô gái phía bàn trong rồi.

*

    Tiếng chuông lễ chiều từ nhà thờ trường trung học Đồng Tiến, lẻ loi ngậm ngùi đổ theo tiếng mưa, không khác gì tiếng con quạ đen kêu trên ngọn cây khô già giữa đồng trong cái nghĩa trang quạnh vắng, nơi má ruột tôi vừa nằm xuống. Tôi không thương Tây Ninh nhiều như thương Bến Cầu nhưng Tây Ninh đã có một chút gì mất mác trong đời mà từ lâu tôi không nghĩ tới.

    Đám học trò chờ xe buýt đã đi từ lâu, ly cà phê trên bàn nguội cũng từ lâu, đôi ba người khách đi ra, hình như tôi chưa uống giọt nào. Tôi rời quán, trời vào đêm lúc nào không hay, đường về mưa chầm chậm thưa dần sau lưng.

 

Thuyên Huy

Viết lại thành chuyện từ một đoạn văn ngắn cũ


Du Sơn Yên Tử - Vườn Thơ Mới Xướng Họa

 

THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 177_VƯỜN THƠ MỚI

 


 















Xướng:


Du sơn Yên Tử
Non thiêng nức tiếng tự ngàn xưa.
Yên Tử mờ sương khắp bốn mùa.
Rừng trúc lung linh tơ nắng nhuộm,
Chùa đồng huyền ảo tiếng chuông đưa.
Mơ màng, cây cỏ dường say ngủ,
Lãng đãng, khói mây khéo cợt đùa.
Ngắm suối nguồn reo tâm tĩnh lặng,
Mặc bao suy thịnh nắng rồi mưa.
Minh Tâm

 

Họa 1:


Thăm Huế
Trở lại quê nhà phố cổ xưa
Hoàng cung tráng lệ biết bao mùa
Hương Giang tấp nập khách tình đến
Vỹ Dạ mơ màng điệu hát đưa
Vọng Cảnh Xuân về muôn lối ngõ
Thuận An tiết lạnh sóng mây đùa
Thọ Xương Thiên Mụ bao đời đó *
An Cựu Ngự bình vẫn nắng mưa *
TQ
Aug. 16, 2925

 *Ghi chú: mượn ý từ câu ca địa phương: 

Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong” **

Họa 2:

Thiền Phái Trúc Lâm
Thiền phái trúc lâm tự thuở xưa
Non thiêng Yên Tử đã bao mùa
Lâu đời cổ tự còn in bóng
Thánh thót chuông đồng vọng mãi đưa
Lịch sử vua Trần tu đắc đạo
Không gian khoảnh khắc gió mây đùa
Bao đời hậu thế còn ghi mãi
Cảnh đẹp thiên nhiên trãi gió mưa
Hương Lệ Oanh VA
Aug, 16.2025

Họa 3:

Trúc Lâm YênTử 竹林安子

Yên Tử lừng danh tự thuở xưa
Vãng lai du khách viếng quanh mùa
Suốt thời Lê Nguyễn không phai nhạt
Trường phái Trúc lâm chẳng đẩy đưa
Nhường lại Anh Tông theo Phật pháp
Hương Vân tu luyện bất bông đùa
Trang nghiêm đất Bắc nơi Thiền giáo
Tấp nập người thăm lúc nắng mưa

PTL


Lê Nguyễn: Từ đời Lê cho đến đời Nguyễn

Hương Vân: pháp hiệu của Trần Nhân Tông năm 1299 khi đến Yên Tử.

Vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con trai là Trần Thuyên (vua Trần Anh Tông) và xuất gia tu Phật

 

Họa 4:

 

Về thăm chốn cũ

Ta về chốn cũ viếng nhà xưa
Ruộng lúa vừa xong vụ cuối mùa
Khói tỏa un đồng con trẻ giỡn
Chiều rơi đợi gió sáo diều đưa
Cụ già tựa cửa chờ ai đến
Đứa bé đòi cơm lặng tiếng đùa
Lối nhỏ chiều nay sao vắng quá
Nghe lòng nặng trĩu những cơn mưa
Nguyễn Cang
Aug. 15, 2025

 

 

Kể Chuyện Anh Nghe & Lạc Mất Nhau - Nguyễn Thị Châu

 KỂ CHUYỆN ANH NGHE

 


















Anh thời an giấc nghìn thu

Còn tôi đêm vắng âu sầu thở than

Những đêm thức giấc mơ màng

Nhìn ra ngoài ngõ trăng tàn lặn chưa?

Lá Thu xào xạc đong đưa

Như anh đứng đó mà chưa thấy vào?

Giờ anh đang ở nơi nào?

Non cao, nước biếc, chiến hào, chòi canh

Quê mình đã mất rồi anh..

Anh đền nợ nước, tuổi xanh xong rồi

Tôi còn ở lại trên đời

Nhìn bao thay đổi khúc nôi đoạn trường

Một đời chinh chiến gió sương

Nằm gai nếm mật, con đường thê lương

Các anh chinh chiến bốn phương

Bây giờ còn lại con đường khổ đau

Các anh khổ nhọc gian lao

Vào tù, vượt biển, biết bao khổ hình

Bây giờ trở lại quê mình

Nói cho anh biết chuyện tình hôm qua…!!!

 

27-8-2025

Nguyễn thị Châu

 

LẠC MẤT NHAU

 
















Phố vắng chiều nay có bóng ai?

Dáng đi tha thước nét trang đài

Phất phơ áo trắng bay trong gió

Cô gái tìm ai? Dưới nắng phai

 

Sợi nắng dịu dàng trên mái tóc

Đi tìm hơi ấm của ngày qua

Phố cũ bây giờ sao vắng vẻ

Gió lạnh hồn tôi, buổi chiều tà

 

Phố đã lên đèn anh ở đâu?

Để tôi từng bước nhớ âu sầu

Đã vắng trong tay từ dạo ấy

Xa rồi lưu luyến lúc ban đầu

 

Góc phố tôi ngồi tưởng nhớ anh

Tuổi đời hai đứa vẫn còn xanh

Cho nhau hơi ấm tình thân ái

Phố cũ lên đèn vắng bóng anh

 

Lại nhớ người yêu của ngày nào

Những ngày hai đứa mới quen nhau

Thương anh đời lính nhiều gian khổ

Hai đứa bây giờ lạc mất nhau…!!!

 

27-8-2025

Nguyễn thị Châu

 

Tiếng Vĩ Cầm Dang Dở - Yến Linh

 

Tiếng vĩ cầm dang dở



 

    Như thường lệ, sáng nay, ông già lại chơi đàn. Sau chén trà buổi sáng, ông đến vách nhà lấy cây đàn treo trên giá xuống, lấy nó ra khỏi hộp đàn bằng nhung màu đỏ đã lỗ chỗ sờn rách. Có vẻ như đêm qua con chuột mẹ trên nóc nhà lại đến gặm một ít vải nhung đem về làm cái tổ đang dang dở của nó
Ông đặt đàn lên vai và chơi một bản vĩ cầm độc tấu. Giai điệu buồn bã, ma mị. Gã đạp xe xích lô chạy ngang nhà nhìn ông qua ô cửa sổ chậc lưỡi than vãn bâng quơ. Ông già ơi! Đừng chơi những bản nhạc não nề như vậy nữa. Sáng nào ông cũng toàn chơi những âm thanh nghe rầu đến thúi ruột, tụi tui không còn tâm trạng để làm việc nữa. Vợ con chắc có nước chết đói. Ông già cười cười, xen lẫn cơn ho. Bản nhạc đột ngột phải dừng lại. Thi thoảng, bản nhạc ông chơi phải dừng lại vì những lý do hết sức vô duyên như vậy. Chẳng trách họ được. Họ cần âm thanh gì đó vui tươi khỏa lấp đi cuộc sống đói khổ, buồn bực và tủi hờn của mình. Còn những âm thanh ông sắp xếp vừa đơn độc vừa khiến người ta thấy cô đơn khôn tả.
Ông dừng đàn, nhấm thêm một tách trà gừng. Ông không thấy buồn khi người ta cắt ngang mạch cảm xúc. Những người đó không phải là đối tượng nghe nhạc của ông. Ông không cần họ. Ông ngân lên những khúc đàn như vậy, nghe họ nhắc nhở, chỉ để biết rằng ông vẫn còn đang tồn tại quanh họ, trong cuộc sống này, ở cạnh nhiều người. Dù sao, khi đang sống, biết mình sống và kiểm soát được mình vẫn là điều tốt.
Vị gừng cay nồng phả vào mũi khiến ông tỉnh táo hơn giữa buổi sáng mùa đông rét buốt như thế này. Đêm qua, ông không chợp mắt được chút nào. Cơn lạnh nhức nhối từ trong xương lan ra đến bên ngoài. Có lẽ ông đã già thật rồi. Không còn chịu nổi cái lạnh này nữa. Mùa đông trước, ông và gã bạn già vẫn thường ngồi trước công viên, chơi những khúc đàn song tấu với nhau. Chơi cho đến đêm, khi sương xuống, rủ lên vai ướt lạnh. Người qua đường ném vào chiếc mũ những đồng xu leng keng. Gã bạn bảo, đó là những đồng xu lấp lánh được ban tặng bởi lòng yêu nhạc hoặc lòng thương hại hai lão già khốn khổ. Ông bảo, ông sẽ nhận những đồng xu được ban phát bằng lòng yêu âm nhạc, không phải là những đồng xu thương hại. Gã bạn bảo, những đồng xu đã lẫn vào nhau, không thể nào phân biệt tách bạch được. Ông phẩy tay, vậy ta không lấy bất cứ đồng xu nào. Hình như ông nghe gã bạn khóc. Gã rấm rứt, tủi thân, vì thế âm thanh trở nên lạc điệu.
Bây giờ, ông không ra đường được nữa, không còn có thể ngồi trên ghế đá và kéo đàn. Gã bạn già đã yên nghỉ dưới nấm mồ vô danh nào đó, ông không sao biết được. Sự gắn kết giữa ông và gã chỉ bằng tiếng đàn. Khi không còn làm công việc gắn kết những âm thanh, không ai còn biết về nhau nữa. Thi thoảng, ông tự hỏi về âm thanh của những đồng xu leng keng ấy, liệu có theo gã không. Dù gì, với người nghệ sĩ chơi đàn, mang theo những âm thanh nào đó cũng tốt hơn là chết một cách rỗng tênh.
Một thời gian dài, ông không hề đụng đến đàn. Ông không còn biết chơi cho ai nghe nữa. Con mèo già thường trốn trong đống chăn mền lùng bùng ngao ngao, lừ đừ dụi người vào chân ông càng làm âm thanh phát ra từ cây đàn buồn tẻ, mệt nhọc hơn. Ông biết mình nên dừng việc này lại. Ông rũ mạnh đám lông mèo bám trên mền. Nó làm cơn ho lụ khụ của ông bắt đầu và kéo dài hơn. Con mèo đã già rồi. Nó quẩn quanh chân ông cả ngày, nằm liu thiu nhìn ông uống trà, hơi nghiêng tai nghe tiếng chuột kêu và cụp đuôi ngủ khi thấy bữa trà của ông quá lâu. Nhưng nếu không nấn ná với những việc nhàm chán đó, ông biết làm gì?
***
Ông đã không chơi đàn một thời gian, cho đến khi con bé đến.
Con bé mê mẩn với tiếng đàn buồn bã, ma mị dù nó chẳng biết ông đang chơi bài gì và như thế nào là những nốt nhạc. Không cần thiết lắm về những điều đó. Nó là người bạn duy nhất của ông. Mỗi khi nghe ông chơi đàn tim nó run bằn bặt, nghẹn lại, xót xa, khấp khởi vui mừng. Nó gọi ông là nghệ sĩ già, biết sắp đặt âm thanh. Sự sắp đặt đầy tuyệt diệu, làm mê mẩn.
Ông đặt cây vĩ cầm lên vai. Ông đã nghe thấy tiếng chân con bé. Sẽ nhanh chóng thôi, nó có mặt ở đây. Con bé đang chạy sầm sập từ bên mé bờ kênh bên kia chạy sang. Không hiểu sao nhưng ông nghe trong tiếng chân nó nỗi niềm hoang hoải lo sợ.
Con bé con chất gạch thành đống cao cạnh cửa sổ. (Rất ngớ ngẩn là ngày nào nó cũng chất gạch thành đống cao rồi xô đổ đống gạch đó đi, hôm sau lại bắt đầu xếp tiếp. Lặp đi lặp lại như thế. Dường như nó muốn có việc gì đó để làm, gọi là điều kiện để được nghe nhạc, như người ta xếp hàng dài trước cửa rạp chờ mua vé xem một danh cầm nào đó đang chơi nhạc).
Nó đứng trên đống gạch xếp vuông vức ấy, thò đầu vào cửa sổ căn gác của ông. Lần đầu tiên gặp, nó thò đôi mắt trong veo vào, chăm chăm nhìn cây đàn treo trên vách nằn nì ông chơi vĩ cầm cho nó nghe. Sau này, bao giờ nó cũng bảo ông chơi đúng ba bản nó đã nghe ông chơi lần đầu và chỉ lặp đi lặp lại ba bản ấy khiến đôi khi ông cảm thấy âm nhạc, cuộc sống của mình và nó đang trì đọng đi. Song ông vẫn chơi theo lời yêu cầu của nó. Khi ông chơi xong nó vỗ tay khen tấm tắc. Nó hỏi, ông ơi, ông ở đâu tới đây? Ông chơi đàn lâu chưa? Nó hỏi đi hỏi lại câu ấy. Và ông cũng trả lời không biết bao nhiêu lần cùng một câu trả lời. Ta từ miền xa xôi tới đây, nơi ấy có núi rừng, có biển cả, có mọi thanh âm tươi đẹp nhất. Đó là thiên đường. Ta chơi đàn cả cuộc đời ta, cháu ạ! Ông ơi! Mỗi khi nghe tiếng đàn, cháu lại thấy mình được đứng giữa cánh đồng cỏ bao la rộng lớn. Cháu mặc một bộ váy áo màu trắng, xinh đẹp như công chúa và cháu chơi đàn. Cháu chơi đàn giống như ông. Cháu chơi đàn cho tai cháu, lòng cháu nghe.
Ông dừng tay, treo đàn lên cái giá treo tường. Ông dỏng tai hỏi con bé con.
– Cháu bao nhiêu tuổi rồi?
– Cháu mười lăm tuổi.
– Tuổi mười lăm là tuổi của mơ mộng đấy cháu ạ! Rồi ngày nào đó, cháu sẽ thực hiện được.
– Cháu không biết nữa. Đêm nào cháu cũng nằm mơ. Khi tỉnh dậy, giấc mơ chẳng bao giờ thành hiện thực cả nên cháu không còn tin vào giấc mơ nữa.
Giọng con bé chùng xuống. Nó ngoáy móng tay trên tấm vách sột soạt.
– Nhà cháu ở phía đằng kia. Khi nào ông đến nhà cháu chơi nhé!
Con bé chỉ tay về mé bên kia bờ kênh. Nó hồn nhiên. Nó quên rằng ông già mù, dĩ nhiên là không thấy đường. Ông già cười. Khi nào ta thật khỏe, ta sẽ đến. Nó cũng cười. Rồi nó tụt xuống khỏi đống gạch, lại sầm sập chạy qua cây cầu ván nhỏ bắc qua bờ kênh.
***
Sáng nay, con bé không yêu cầu ông chơi đàn. Nó lắng nghe âm thanh lơ đãng, dường như chỉ mong chóng hết. Quả vậy, ông vừa ngưng tiếng đàn, nó đã hỏi ông.
– Ông ơi! Nếu mẹ cháu yêu ông, ông có yêu mẹ cháu không? Cháu có thể được ở với ông và mẹ cháu không? Cháu yêu hai người lắm.
Giọng con bé thành khẩn. Kèm trong đó là nỗi ước muốn rất lớn lao. Ông già biết, con bé không đùa.
– Thế cha cháu đâu? Cha cháu sẽ không để cho một lão già như ta đi yêu mẹ cháu đâu.
– Cháu không có cha!
Đôi mắt ông hấp háy khó nhọc.
– Nhưng mẹ cháu sẽ không yêu ông. Ông đã già rồi. Chúng ta không đùa như thế này nữa, cháu nhé!
Ông biết mình nên kết thúc câu chuyện ngay lúc này. Bởi tình yêu, hai tiếng đó, nó thường khơi gợi lại vết thương nhoi nhói trong ông.
– Mẹ cháu sẽ yêu ông. Mẹ cháu sẽ yêu tất cả đàn ông trên thế gian này. Chỉ cần ai có tiền là mẹ cháu sẽ yêu. Mẹ cháu là đĩ đấy ông ạ! Ông có tiền để yêu mẹ cháu không?
– Không! Ông là lão già nghèo kiết xác.
Ông ngạc nhiên, tại sao con bé lại nói như thế? Ai đã dạy cho nó những lời nói về mẹ mình như thế?
Một tuần sau buổi sáng con bé hỏi ông câu hỏi lạ lùng ấy, ông không thấy con bé quay lại. Ông chờ mãi, chờ mãi. Ông chờ con bé thò đầu vào ô cửa, ông sẽ chơi cho nó nghe bản nhạc cuối cùng của cuộc đời ông. Bản nhạc trọn vẹn và hay nhất. Bỗng dưng, một buổi sáng thức dậy, ông thấy mình đã già và quá đơn độc bởi những thanh âm, tựa hồ những con ve sầu cuối hạ, đã cạn kiệt sức lực cho bài ca râm ran. Ông muốn tặng con bé cây vĩ cầm, bảo nó rằng giấc mơ đôi khi có thật trong đời.
Ngày thứ tám, con bé lại thập thò bên cửa sổ. Mùi tóc khét nắng báo cho ông biết nó đã đến. Ông lấy cây đàn trên giá. Dây đàn đã cũ. Có lẽ sẽ đứt sau khi ông kết thúc bản nhạc. Ông hào hứng đàn. Chưa bao giờ nó thấy ông đàn hay như thế.
– Về mau! Hóa ra sáng nào mày cũng chạy biến đi là để đến đây đấy à? Về nhà sẽ biết tay tao.
Âm thanh chua lè, cáu bẳn phát ra từ giọng một người đàn bà.
Dây đàn đứt phựt bởi người chơi không đủ tịnh tâm để điều khiển nó. Bản nhạc cuối cùng đã không được chơi trọn vẹn. Ông nhướn đôi mắt mù lòa về phía cửa sổ. Tiếng bước chân đã xa dần. Không nghe tiếng con bé. Mẹ nó không ngừng nhiếc móc và hình như có cả véo tai, đánh vào người nó. Con bé chạy đi.
Con bé không còn đến nữa. Ông già lên cơn sốt li bì, không ăn uống mấy ngày liền. Ba ngày sau thì ông mất. Khi chôn ông ở rìa đất dành cho mấy người nghèo vô gia cư, người ta không nói với ông, con bé đó đã đi mãi rồi. Nó không có cha mẹ. Nó là trẻ lang thang lại bị bệnh tâm thần phân liệt, thích đóng hai vai. Khi thì đóng vai con, khi thì đóng vai mẹ. Đêm đêm, đi ngang qua khu để ống cống xi măng của mấy ông làm đường, người ta vẫn nghe nó khóc, rồi thấy chính nó giả làm mẹ nó, vừa dỗ dành nó vừa la mắng, hăm dọa hoặc phét vào mông nó. Hẳn nó thèm khát và nhớ mẹ.
Cây vĩ cầm, người ta đã hóa tro mang xuống cho ông. Dây đàn đứt rồi, liệu linh hồn ông có chơi trọn vẹn một bản nhạc?

Yến Linh

 

Wednesday, August 27, 2025

Qua Công Viên Nắng Chiều - Nguyễn Đạm Luân

 Qua Công Viên Nắng Chiều




Sông Hương Có Nói Chi Mô - Đoàn Thạch Biền

 

Sông Hương Có Nói Chi Mô




Tôi đã đến Huế hai lần, lần nào cũng vội vã vì bận công việc nên chỉ ở lại một hai ngày. Huế vốn thâm trầm, thầm lặng, nên chẳng thể hiểu vội vã được. Tôi đã liều viết cái phần mình chưa hiểu về Huế nên không tránh khỏi sự hiểu lầm. Rất mong bạn đọc gốc Huế lượng thứ.

Tường dắt tôi đi thăm lăng Tự Đức. Vốn là dân Huế nên Tường rành rọt, chỉ cho tôi biết nơi nhà vua xem hát bộ, nơi cung nữ ở… Khiêm Lăng to lớn này được xây dựng trong ba năm và vua thường đến đây vừa nghĩ ngơi vừa chiêm ngưỡng nơi sẽ chôn cất mình.

Ngồi nghỉ chân dưới bóng mát một cây sứ cổ thụ, bên ngôi mộ xây bằng đá cẩm thạch của vua, tôi tò mò đọc bài thơ chữ nôm của vua Tự Đức in trên tấm vé bán vào thăm lăng. “Khôn dại cùng chung ba tất đất, Giàu sang chưa chín một nồi kê”. Tôi thầm hỏi: “Vua đã viết được như vậy, sao còn làm khổ người dân xây chung quanh “ba tấc đất” của vua nhiều ngôi nhà to lớn như một cung điện? Phải chăng từ xưa đến nay, giữa viết và làm thường khác xa nhau?”

Trưa hè ở Huế trời nắng gắt. Khi rời khỏi lăng vua Tự Đức, tôi cảm thấy đói bụng. Tôi nói Tường chở tôi đi ăn một món ăn Huế. Tường nói sẽ chở đến quán bánh khoái. Nơi đó cô gái bán hàng biết mười ngoại ngữ.

Tôi tin là Tường nói thật. Người Huế vốn ham học. Cô gái hàng ngày phải giao dịch với nhiều khách du lịch nước ngoài nên có thể em đã học được một số ngoại ngữ. Nhưng biết được mười ngoại ngữ thì cũng đáng nể, tôi hối thúc Tường chạy xe Honda thật nhanh để được gặp mặt cô gái. Vừa “no mắt” vừa no bụng.

Tường dừng xe trước một quán bán bánh khoái gần chợ Đông Ba. Khách ra vào tấp nập. Nhiều nhất vẫn là khách du lịch nước ngoài mặc quần soọc vai mang balô. Phải đợi một lúc, chúng tôi mới có ghế ngồi. Những chiếc bánh khoái nóng hổi được đem đến. Chúng giống như bánh xèo ở Sài Gòn nhưng chỉ nhỏ bằng lòng bàn tay và được chiên vàng rụm. Đặc biệt bánh khoái ăn với tương chứ không phải nước mắm chua ngọt. Ăn xong một chiếc bánh khoái mùi rau húng quế còn thơm ngát trong miệng, tôi hỏi Tường:

– Cô gái biết mười ngoại ngữ đâu?

Tường cười chỉ cô gái mặc áo thun đỏ, váy trắng (điều hiếm thấy ở các cô gái Huế) đang đứng nói chuyện với một ngoại kiều cách chỗ tôi ngồi hai cái bàn. Em đứng quay lưng lại nên tôi không nhìn thấy khuôn mặt em. Hai người đang trò chuyện vui vẻ, rất tiếc họ đứng hơi xa nên tôi không nghe rõ họ nói tiếng nước nào.

Một khách nước ngoài ngồi gần bàn tôi, gõ đũa vào miệng chén. Cô gái quay lại nhìn rồi bước đến tính tiền. Lúc này tôi mới nhìn rõ khuôn mặt em. Một khuôn mặt thanh tú với đôi mắt to đen láy và cái miệng luôn cười. Người khách chỉ những đĩa thức ăn trên bàn. Cô gái gật đầu nhẩm tính rồi ghi vào phiếu tính tiền đưa cho ông ta xem. Người khách chỉ vào một cái đĩa và giơ hai ngón tay. Cô gái cười ghi thêm vào phiếu tính tiền. Người khách móc tiền ra trả và cười nói: “How old are you?”. Đáp lại, cô gái xòe hai bàn tay ra hai lần, lần sau em cụp lại một ngón cái.

Bây giờ tôi mới hiểu Tường đã “chơi chữ”. Cô gái bị câm và phải nói chuyện bằng 10 ngón tay. Uống một ngụm bia Huda, tôi hỏi Tường:

– Cô gái bị tật hồi nhỏ à?

Tường gật đầu rồi nói:

– Cả ba chị em đều bị câm.

– Bệnh di truyền?

– Không, ba mẹ mấy cô đều nói năng bình thường. Người ta đồn rằng mộ ông nội của mấy cô táng trúng lưỡi rồng nên gia đình làm ăn phát đạt, bù lại con cháu đều bị câm. Nếu dời mộ đi chỗ khác, các cô sẽ nói được nhưng bù lại gia đình sẽ nghèo mạt ba đời. Cô chị đang đứng đổ bánh khoái đó. Cô thứ hai đi tính tiền, còn cô út ở trên lầu lâu lâu xuống phụ việc. Cũng may ba chị em tuy không nói được nhưng vẫn nghe được và họ viết chữ rất đẹp.

Tôi không biết đấy có phải là điều “may” hay càng khốn khổ hơn khi người ta nghe được mà không nói được?

Đợi quán thưa khách, tôi gọi cô gái đến tính tiền để có dịp trò chuyện. Cô gái đếm những đĩa bánh khoái và hai chai bia trên bàn rồi em viết phiếu tính tiền. Tôi hỏi:

– Em tên gì?

Cô gái cười nhìn quanh rồi chỉ bức tranh vẽ hồ sen Tịnh Tâm treo trên tường.

Tôi nói:

– Em tên Liên?

Cô gái gật đầu. Tôi hỏi tiếp:

– Nhưng gì… Liên?

Em viết trên phiếu tính tiền chữ Diệu.

– Diệu Liên! Tên hay quá. Đóa sen huyền diệu.

Cô gái e thẹn cúi đầu. Tôi bắt đầu kể lể: Tôi ở Sài Gòn mới ra thăm Huế lần đầu. Đến một nơi nào xa lạ, tôi nghĩ không phải chỉ đi xem thắng cảnh hay đi dạo phố xá mà hiểu được nơi đó. Cần phải thưởng thức những món ăn đặc sản và nhất là phải làm quen với một cô gái, nhờ vậy mình sẽ hiểu nơi đó hơn. Tôi đã ăn bánh khoái Huế rất ngon. Tôi muốn em giúp tôi hiểu Huế thêm một chút nữa được không?

Cô gái nhìn thẳng vào đôi mắt tôi. Cũng may vì vội vã khi ra Huế, tôi đã bỏ quên đôi kính cận một độ của mình ở Sài Gòn nên nhìn đôi mắt tôi lờ đờ như đôi mắt cá ươn rất “vô tư”, cô gái đã thương hại gật đầu.

Buổi tối mùa hè, Huế đã mát nhờ những hàng cây hai bên đường rì rào tiếng lá. Tôi chở Diệu Liên trên chiếc xe Honda mượn của Tường. Em ngồi sau chỉ đường bằng cách vỗ vai phải, vai trái của tôi và tôi sẽ quẹo phải hay quẹp trái.

Nhờ em tôi mới biết hồ Tịnh Tâm với ngôi nhà ngồi hóng mát bị sụp đổ một bên, không còn nguyên vẹn như trong bức tranh vẽ treo ở quán em. “Đường phượng bay” xanh rì bóng lá vì mùa hoa phượng đã tàn. Bánh cuốn ở Kim Long khác hẳn bánh cuốn ở Sài Gòn. Và chè thịt heo quay ngon hơn chè sâm bổ lượng ở Chợ Lớn.

Tôi hỏi: Em hãy chỉ tiếp cho tôi biết nơi nào bán cơm hến, bánh ướt, chè bắp?

Em che miệng cười khúc khích. Tôi đưa cuốn sổ tay cho em và em viết: Ông tham ăn quá. Những món ăn ngon, ông ăn cùng một lúc, chúng cũng sẽ hết ngon.

Tôi nói: Nhưng ngày mai tôi phải về Sài Gòn rồi. Làm sao tôi có thể thưởng thức những món ăn kia?

Em viết: Chúng sẽ mãi còn ngon khi ông còn háo hức muốn ăn?

Tôi nói: Thôi bây giờ chúng ta đi uống càphê. Tôi muốn biết cà phê ở Huế ngon cỡ nào.

Em gật đầu và tôi tiếp tục chở em đi. Cầu Tràng Tiền đang sửa chữa lại, em chỉ tôi chạy xe qua cây cầu mới. Chúng tôi vào một quán cà phê lộ thiên ở sát bờ sông Hương, ngay phía trước trường Quốc Học.

Tôi chọn một cái bàn đặt ngay dưới bóng đèn điện sáng choang. Chẳng phải tâm hồn tôi ưa thích sự trong sáng mà vì ngồi ở nơi sáng sủa, tôi mới có thể đọc được những câu em viết trả lời.

Tôi gọi cho em một ly đá chanh và cho tôi ly cà phê đen. Rất bất ngờ tôi được nghe lại giọng ca Tuấn Ngọc với bài “Chiều một mình qua phố” của Trịnh Công Sơn ở quán cà phê này. Diệu Liên mấy máy đôi môi hát theo. Tôi hỏi:

– Em cũng biết bài hát này à?

Diệu Liên gật đầu và môi em tiếp tục mấy máy. Tôi buồn muốn khóc khi thấy em say sưa hát một bài ca không thành lời. Im lặng là vàng, đúng vậy. Nhưng im lặng mãi sẽ là đất đá. Tôi không muốn em là đất đá. Tôi thầm cầu mong cho em một lần được nghe giọng hát của chính mình. Bài hát dứt, môi em vẫn còn run run vì xúc động hay vì lời ca “ngoài kia không còn nắng mềm, ngoài kia ai còn biết tên?”

Không ngăn được tò mò, tôi hỏi em câu chuyện người ta đồn về gia đình em mà Tường đã kể cho tôi nghe lúc trưa.

– Chuyện đó có thật không?

Em gật đầu. Ôi “ba tấc đất” của người chết đã làm khổ người sống quá nhiều! “Giàu sang chưa chín một nồi kê”. Tại sao người ta bắt im lặng mãi? Tự nhiên tôi nổi sùng nói:

– Em hãy cho tôi biết mộ ông nội em nằm ở đâu? Tôi sẽ thuê người ta dời mộ để em nói được. Em cần phải nói, phải hát.

Em khẽ nắm tay tôi lắc lắc. Rồi em cúi xuống viết vào cuốn sổ tay tôi để trên bàn: Ông cần em phải nói, ông mới hiểu? Sông Hương có nói chi mô mà người ta cũng hiểu nó.

Viết xong, em ngẩng lên nhìn dòng sông Hương lấp lánh ánh trăng. Mặt nước phẳng lặng không gợn sóng. Gió từ mặt sông thổi lên mát rượi. Tôi nhìn vào đôi mắt em đang mở lớn. Đôi mắt cũng lấp lánh ánh trăng nhưng có nói chi mô. Đôi mắt đó câm hay tâm hồn tôi điếc?

Đoàn Thạch Biền

Từ trang OVV