Một Chuyện Quái Đản
Chiều hôm ấy, tôi lại vào vườn táo, trèo lên một cây, vừa bứt
quả chín ăn, vừa nhìn ra đường, mong đợi lão già cô độc. Trời đã nhá nhem tối.
Bọn lái buôn ở chợ Ráy bên sông Lục đã quảy gánh trở về, lũ lượt đi qua ngoài
rào tre, trò chuyện ồn ào, vui vẻ mà tôi vẫn chưa thấy ông già thân yêu đó tới
gõ cửa, âu yếm gọi tên tôi.
Lòng tôi bồn chồn, khắc khoải, tay
tôi uể oải không muốn vin những cành mềm dẻo, đầy những chùm táo ngon lành. Ô
hay, tôi nhớ ông cụ già khốn khổ mà bấy lâu nay tôi không biết tên tuổi, không
biết cửa nhà, tông tích ra sao! Chỉ biết ông ta cứ cách một ngày lại tới thăm
cha tôi vào lúc trời sẩm tối. Mỗi lần đến, không bao giờ ông ta quên giắt trong
mình một hộp thuốc phiện và mang làm quà cho tôi vài thứ quả rất ngon. Nhưng
mong ông ta đến chẳng phải tôi thích những thứ quà kia vì trong vườn nhà tôi suốt
bốn mùa hoa thơm, quả lạ khá nhiều. Mong ông, bởi tôi được gặp gỡ người bạn quý
của tôi mà bất cứ đi đâu, ông cũng dắt kèm. Người bạn ấy là con khỉ nhỏ, hình
như hiểu biết tiếng người. Tôi đùa nghịch với nó trong khi ông cụ và cha tôi nằm
bên khay đèn tiêm thuốc, luận bàn về thời thế, thi văn. Khi ấy tôi còn nhỏ tuổi,
tôi không hiểu ông nói những gì, mãi đến lúc lớn lên, hay mãi đến bây giờ, tôi
mới rõ nghĩa những câu ông ngậm ngùi than thở với cha tôi.
Buổi chiều hôm ấy, ngồi trên cành
táo, mỏi mắt trông mà tôi không thấy ông già rảo bước trên con đường lồi lõm
ven sông. Buồn rầu, tôi tụt xuống đất, vào nhà hỏi cha tôi tại sao ông già chẳng
tới. Song cha tôi lắc đầu không đáp và bảo tôi đem sách ra ôn lại các bài. Tôi
cúi đầu, mở sách học, nước mắt chạy quanh.
Ngoài vườn gió đông vi vút, thỉnh thoảng những cành lá úa, những trái cây chín
nẫu rơi xuống ao kêu lõm bõm.
Cha tôi nằm trên nệm ấm, kéo những hơi thuốc thật dài, đều đặn, mùi khói thơm tỏa
khắp gian phòng. Một luồng gió lùa vào khe cửa, tôi rùng mình, vội kéo chăn quấn
quanh mình, thò đầu ra học. Chợt tôi nghĩ đến ông già... ông già ở chốn nào bên
kia sông xa lắc xa lơ.
Rồi tôi tưởng tượng thấy ông ta đang ốm
nặng, áo quần không đủ ấm, túp lều chẳng đủ che mưa. Tôi đoán ông nằm dán xương
trên chiếc phản, chẳng có ai hầu hạ vì một lần, ông xoa đầu tôi, cười bảo:
"Ước gì ta có một cậu bé khôi ngô ngoan ngoãn như cậu bên mình thì cuộc đời
cũng đỡ tẻ buồn. Nhưng ác thay, ta cô đơn, không con, không cháu, không thân
thích, họ hàng, đến cả một đứa tâm phúc cũng không có nữa!".
Hôm sau, tôi lại ngồi trên cây táo,
ngóng đợi ông già bên sông. Song bảy tám ngày ròng rã mong chờ, tôi thất vọng.
Tôi lạt lẽo với lũ trẻ bên hàng xóm, như mọi ngày, kéo tôi ra bãi chợ chạy đùa,
đá bóng. Tôi không nhìn đến cái lồng tre đặt tại gốc cau mà tôi đã nhờ anh bếp
Lào làm hộ để bẫy chim. Suốt ngày tôi thẫn thờ, nhác việc học hành. Nếu hồi ấy
tôi đã lớn khôn thì hẳn có người chế tôi là tương tư gái, nhưng mới mười một tuổi
tôi đã biết yêu đương là gì!
Cha tôi từ khi không gặp ông già hình
như cũng tần ngần, buồn bã. Những lúc nằm bên khay đèn nha phiến, tay dờ dọc tẩu,
đôi mắt lim dim dưới cặp kính, nhả tia khói mảnh vờn ngọn lửa liu riu rồi hãm
ngụm nước chè tàu hoặc miếng lê, miếng táo là những lúc cha tôi bâng khuâng nhớ
đến ông già tri kỷ. Lão già đi mất tức là chúng tôi thiệt một khách đồng hương
tử tế giữa lúc sống ở nơi nước non người. Vì khi chúng tôi mới đặt chân trên đất
Ai Lao chừng hai ba tháng thì do sự ngẫu nhiên mà cha tôi và ông già vô danh đó
biết rồi quen, ông già trở nên khách quý của nhà
tôi. Luôn luôn cha tôi hẹn ông già đến chơi uống rượu, đáp lại tâm tình tri ngộ
ấy, ông già thường cũng làm quà cho cha tôi những con chim lạ mà ông bẫy được
trong rừng. Vợ con ông, cách sinh hoạt, nơi trú ngụ của ông, cha tôi hỏi, ông
chỉ cười không muốn nói. Đến cả tên ông, quê quán ông, cha tôi chỉ biết mập mờ:
"Lão Xương, tuổi dộ 55, 56 (ở tuổi ấy, nhưng ông đã già yếu lắm) và quê
quán: tỉnh Cao Bằng ngoài xứ Bắc. Thế thôi. Tất cả những nét đau khổ in trên
khuôn mặt dày dạn phong trần, tất cả những lời mỉa mai cay đằng trộn trong câu
thơ, bài phú, diễn trong tiếng nói, giọng cười, chỉ bày cho người ta biết một
lai lịch gọn gàng, thế thôi!
Bởi vậy, từ ngày vắng mặt ông già, chúng tôi chẳng thể tìm ông tại xó rừng nào
bên sông.
Tôi, một ngày một lớn, đã bước qua thời kì thơ
dại. Cách bảy năm không thấy ông già, tôi quên mùi vị những trái cây thơm ngọt
mà xưa kia ông già vẫn nhét đầy túi áo tôi mỗi lần tôi niềm nở đón ông ngoài
ngõ; tôi quên những tiếng cười trong trẻo, vô tư lự mỗi khi tôi đùa nghịch với
con khỉ trên cây táo trong vườn; rồi ông già cô độc, tôi cũng quên... tôi cũng
yên trí lão đã ôm con vật có nghĩa kia, nằm chết rấp dưới một gian điếm cỏ, hay
trong một góc rừng sương gió.
Bỗng một ngày kia, ở trường học về tới
cửa, tôi thấy ông già đang ngồi một mình bên cửa sổ, không ai tiếp, vì cha tôi
đi vắng từ tuần lễ trước. Mừng cuống quýt, tôi vội quẳng sách ra bàn, nắm chặt
hai tay lão. Cảm động, lão ngắm tôi bằng cặp mắt khô và nhếch mép cười, lão
cũng mừng tôi chóng lớn. Tôi gọi người nhà pha nước và bảo dọn cơm mời lão cùng
ăn. Tôi hỏi lão về mấy năm chia biệt, lão đáp tôi một cách ngại ngùng, kín đáo.
Tóm lại, tôi chỉ biết trong mấy năm đó, lão không ở xứ Lào. Ăn cơm xong, lão định
ra về, tôi xin lão cho theo thăm cái ổ mà lão giữ bí mật từ xưa.
Chúng tôi thuê đò qua sông. Đến bờ
bên kia, lão dẫn tôi đi trên một cánh đồng ngô dưới chân dãy núi đá, cheo leo,
hóc hiểm. Tới gần khu rừng rậm, tôi tưởng lão rẽ sang con đường tắt để vào
trong đó, nhưng không, lão đưa tôi ngoặt về đằng chân núi, lẻ loi một túp lều
tranh lẩn trong cây cối um tùm. Lão mở khóa dắt tôi vào. Tôi ngắm cảnh bài trí
sơ sài, giản dị: một chiếc hòm cũ, một chiếc phản hẹp phủ manh chiếu tồi tàn.
Phía đầu giường, kê chiếc đôn gỗ, trên đặt một pho tượng trắng hình một thiếu nữ
Lào. Tôi ngẩn người ngắm kĩ, trời ơi, một người... có lẽ hơn bảy năm ở cái đất
Lào này tôi chưa từng thấy thiếu nữ nào có nhan sắc đẹp như pho tượng đó.
Lão Xương mỉm nụ cười tinh quái, vỗ vai tôi:
- Cậu cũng ngây ngất vì sắc đẹp của pho tượng này ư?
Tôi đỏ mặt chưa kịp đáp thì lão lại nói một cách thương yêu:
- Mà cậu không thể vô tình là phải. Bởi vì, với tuổi mười chín, đôi mươi, cậu
đã biết chút ít việc đời.
Lão Xương vừa nói vừa mở hòm lấy ra một
khay đèn thuốc phiện bày lên mặt phản. Rồi lão bảo tôi ngồi cạnh trong khi lão
trân trọng lắp chiếc diện tẩu vào dọc và bật que diêm gí lên ngọn bấc đèn dầu lạc.
Tôi đang nhìn lão lăn tiêm thuốc thì một con khỉ đu mình trên một cành cây nhảy
xuống, bám chiếc chấn song gỗ, chui vào. Nó nhìn tôi, rồi như nhận thấy người
quen cũ, nó chạy đến nắm áo tôi kêu mấy tiếng vui mừng. Lúc ấy, lão Xương vừa
tiêm xong điếu thuốc, bảo tôi:
- Đấy, người bạn cậu hồi còn nhỏ tuổi. Ngày nay cậu đã lớn, mà nó cũng già rồi.
Con khỉ khẽ vuốt má tôi, đoạn nó nép
mình vào áo tôi, ủ cho đỡ lạnh.
Lão Xương, chống khuỷu tay xuống gối, từ từ ngồi dậy, phun một tia khói trắng,
khéo làm cho nó bay lên pho tượng, tỏa lan như một đám mây mờ bao phủ mặt hoa của
vị bạch thần.
Ngạc nhiên, tôi nhìn kỹ lão Xương. Hai mắt lão, trong phút đó, in một nét buồn
vô hạn: cặp môi đã thâm xám sẵn, lúc ấy lại như nhuộm thẫm sắc chàm. Hai bàn
tay run lẩy bẩy đưa về pho tượng đẹp nõn nà như một người bị đuối chơi vơi cố vịn
chiếc phao trên mặt nước, hay một người mê ngủ đang theo đuổi cái bóng mơ hồ của
giấc mộng tàn...
Lão lại nằm xuống, tiêm điếu thuốc
khác và thở khói lên pho tượng, làm cái việc kỳ quặc ấy lão tưởng chừng cạnh
lão không có một người đang lạ lùng hết sức. Con khỉ bỏ tôi, bò đến, hểnh mũi
lên hít khói. Thì ra - tôi nghĩ bụng - lão già, con khỉ, và... cả pho tượng mỹ
nhân đều nghiện nặng.
Mười phút sau, lão Xương mới sực nhớ đến tôi vì từ nãy lão còn mải hút. Lão ngồi
dậy, chiêu ngụm nước, ôm ngực ho mấy tiếng, đoạn tháo diện ra, cạo xái vụn đổ
vào chiếc chén con, vừa nghiền cho quánh, vừa mời tôi uống bát nước chè đã nguội.
- Cậu Hoa! Bữa nay không những cậu được rõ túp nhà gianh bí mật, cậu lại còn được
nghe một chuyện lý thú tôi sắp kể đây. Không còn trẻ thơ, ngây dại, cậu đã lớn
lắm rồi, cậu đã đến thời kỳ phải biên chép vào khối óc những sự dở, hay...
Lão Xương rỏ thêm một giọt nước vào
chén xái, cầm kéo cắt cái hoa lửa "bám trên đầu bấc, xoay lại chiếc chụp
pha lê vỡ rạn, có một vệt cánh kiến khoanh ngang.
"Hồi tôi ngoài hai mươi tuổi, tôi sang xứ Lào này làm việc. Khi xưa, người
mình xuất ngoại không có mấy, nên ở đây tìm một người cùng xứ sở để kết thân
không phải dễ dàng. Ngày đi làm hai buổi, tối lại thui thủi một mình với bóng,
hoặc đọc sách đỡ buồn. Nhất là một trai chưa vợ đang cường tráng, hoạt động,
ngông cuồng, khao khát tình yêu, lại sống lạt lẽo thì chịu làm sao! Nhưng tôi
buồn chán không lâu, vì cái thú thiêng liêng mà tuổi trẻ ước ao được nếm đã
tràn ngập linh hồn tôi vào một buổi tối mùa đông mưa gió...
"Tối ấy, tôi toan tắt đèn lên giường ngủ thì có tiếng người gọi cửa, tiếng
gọi rất mau. Tôi vừa rút chiếc then thì người bên ngoài đã vội vàng đẩy mạnh,
hai cánh cửa mở toang, khiến tôi suýt ngã. Dưới ánh đèn, tôi định thần nhìn kỹ:
một thiếu nữ, trời ơi! Khách lạ có vẻ sợ sệt, cuống cuồng, hình như một tội
nhân trốn ngục, hình như có kẻ thù theo dõi sau lưng để hại... Nàng đứng nép
vào khe tủ, thân hình co quắp, lẩy bẩy run tựa chiếc lá khô sắp rụng. Màu da
tái lợt, nàng hoảng hốt nhìn ra bóng tối chập chờn. Biết nàng lo sợ, tôi vội
khép cửa, gài then, và chặn thêm một chiếc bàn to để nàng yên dạ. Rồi tôi mời
nàng ngồi xuống ghế, hỏi duyên cớ vì đâu mà nàng phải hãi hùng... Nàng chỉ ngó
tôi, không hé miệng. Tôi đoán nàng ngờ tôi không thực lòng che chở cho nàng.
Sau biết nàng mệt và đói, tôi gọi tên lão bộc Lào, bảo thổi cơm, đốt củi...
Trông thấy lão bộc của tôi nàng rú lên một tiếng, níu lấy áo tôi, hai hàm răng
đánh vào nhau cầm cập. Tôi ngờ: có lẽ nàng đang bị một người chồng đồng chủng định
hại nàng, nên sợ lây đến cả tên đầy tớ của tôi!
"Nghĩ vậy, tôi nắm chặt tay nàng giới thiệu tên đầy tớ nọ là một kẻ trung
thành, thân tín, quyết không xâm phạm đến nàng. Lúc đó, nàng mới yên tâm, ngồi
cầm khăn tay lau mặt, sửa lại mái tóc, thấm những hạt nước mưa đọng trên xiêm
áo.
"Một lát sau, mâm cơm đã đặt trên bàn. Không chờ tôi mời hai tiếng, nàng cầm
đũa ăn một cách tự nhiên. Trong nửa giờ, các món ăn và nồi cơm đã hết, nàng ngồi
bên lò than nóng sưởi tay, ngẩng mặt nhìn tôi như thầm cảm tạ. Tôi cũng kéo ghế
ngồi bên; bấy giờ, nàng mới cho tôi biết rõ tên nàng là Sánh Mải, một người
trong Hoàng phái đức vua Lào, song mẹ cha mất sớm, nên phải sống như một kẻ thường
dân. Nàng ở về phía bắc giáp khu rừng Lao Bản, làm nghề dệt vải nuôi thân. Đang
sống những tháng năm yên tĩnh thì bữa kia, một gã thanh niên bên hàng xóm, vì
nhiều phen xin nàng ban cho tình yêu nhưng thất vọng, gã sinh dạ oán hờn. Rồi
nhân một hôm nàng ra chợ bán hàng, gã châm lửa đốt nhà nàng.
"Bơ vơ, nàng ra tỉnh thuê gian nhà nhỏ, cố công tần tảo kiếm tiền. Mừng thầm
không ai phiền nhiễu nữa, thì chợt một buổi tối trời, đang theo tên phu quẩy
gánh hàng từ chợ về tới cửa, không ngờ, nàng nghe rõ mấy lời đe dọa sau lưng.
Ngoảnh lại, nàng nhận thấy cái mặt xấu xí thô bỉ của kẻ thù xưa. Nàng vội chạy
vào nhà, đóng cửa, gã kia vụt nhanh như chiếc bóng, cười gằn mấy tiếng, đoạn biến
vào ngõ hẻm. Từ hôm đó nàng ít ăn ít ngủ, sớm tối lo buồn.
"Một buổi, nàng mang vải sang một nhà phú hộ bên sông bán. Bán xong, theo
đường cũ ra bến nước đáp đò về thì bỗng nàng trông thấy kẻ thù đã đứng chờ dưới
một gốc cây. Sợ hãi, nàng quay mình lại, rảo cân lẩn vào cánh đồng ngô rậm rạp,
chạy đến nhà tôi, liều đập cửa...
"Rồi đêm ấy...
"Ánh lửa trong lò than le lói hắt lên khuôn mặt trái xoan, trắng mịn, hắt
lên cặp mắt đen tựa màu huyền trong sáng, chiếc mũi dọc dừa, với hai làn môi đỏ
san hô vẽ một nét thanh thanh tuyệt mỹ... mấy vòng kiềng bạc khoanh dưới cái cổ
trắng tròn, đôi vai đều đặn, bộ ngực nở nang và cả tấm hình tha thướt ấy. Ái
tình ôi! Cho phép tôi yêu!
"Đê mê, tôi thèm cái quyền sở hữu người đẹp nọ, rồi đánh bạo, tôi kề sát
nàng mà âu yếm. Nàng không cưỡng, mỉm cười.
"Rồi đêm ấy...
"Tôi bơi lội trong nguồn ân ái. Tôi biết hương vị của bông hoa bạt gió rơi
xuống tay tôi do sự tình cờ...
Nói đến đây, lão Xương tiêm xong điếu thuốc kéo một hơi. Lão lôi con khỉ đến gần,
thở khói vào mũi nó. Con vật nhìn tôi nhảy nhót, làm như khoan khoái lắm.
"Từ đấy, nàng không rời tôi ra nữa. Sống cuộc đời tốt đẹp, chúng tôi vui
sướng vô cùng. Mê tôi quá, yêu tôi quá, lúc nào cũng muốn gần tôi, nên nàng bảo
tôi xin nghỉ việc ngồi nhà để nói chuyện với nàng và một điều cốt yếu là để che
chở nàng, nếu chẳng may kẻ thù kia quấy nhiễu... Trước tôi lưỡng lự, e rằng
không làm việc, tất chẳng có tiền tiêu. Nhưng nàng giơ cho tôi xem một cuốn giấy
bạc lớn mà nàng giắt tận túi áo trong, tôi mới bằng lòng. Thế là suốt ngày đêm
chúng tôi chỉ ăn, ngủ và hút. Ở nơi sơn dã rất buồn, không có một cách gì giải
trí, nếu chẳng kết bạn cùng thiếu nữ Phù dung. Bộ bàn đèn, bởi vậy không một
phút nào xa cách chúng tôi. Nàng tiêm rất khéo, ép tôi hút thực nhiều. Đầu
tiên, tôi còn bị say, khiếp sợ, sau mùi khói thơm tho, những phút linh hồn bay
đến cõi mông lung, huyền ảo, trong ít bữa, đã xui tôi ca tụng thú ả phiến.
Chúng tôi thi nhau hút, hút thâu đêm suốt sáng, Phù dung trộn với ái tình, say
sưa... Thế rồi tôi mắc nghiện. Tinh thần tôi nặng nề, u tối; thể chất tôi yếu ớt,
gày, xanh. Trái lại, người yêu tôi một ngày một đẹp, đẹp hơn lúc tôi mới biết
nàng.
"Cứ thế, chúng tôi quên non sông, vũ trụ, mà nỗi lo về kẻ thù theo dõi bấy
nay cũng dần tiêu tan hết...
"Chẳng ngờ, một buổi tối hè trăng gió, chúng tôi hút xong, mở toang cửa sổ
cho khỏi nóng thì bỗng một cái mặt người dữ tợn hiện ngoài song gỗ, rồi biến mất...
"Nàng thét lên một tiếng ôm chập lấy tôi, run lẩy bẩy, nước mắt chạy
quanh.
"Chúng tôi, từ đêm ấy, buồn bã vô cùng. Ngày, chúng tôi không ra khỏi ngõ.
Đêm chúng tôi lo có kẻ rình mò, nghe ngóng, tuy các cửa đã khóa kỹ càng.
"... Một buổi chiều, nàng đờ đẫn nhìn ra rừng cây, cánh đồng ngô bát
ngát... Trầm ngâm hồi lâu không nhúc nhích, vẻ mặt nàng thê thảm như vừa nghĩ đến
những điều đau thương trong ký ức hãi. Ái ngại, tôi khẽ rỉ tai nàng:
"- Em...
"Ngoài câu đó, tôi không biết nói gì hơn nữa. Nàng ngoảnh lại nhìn tôi,
khiếp hoảng:
"- Trời ơi, em tưởng...
"Ấp tay lên ngực để trấn định trái tim đập mạnh vì sợ hãi, nàng bảo tôi ngồi
sát bên mình, ngả đầu sang vai tôi ủ rũ.
"Anh Hoa! Anh tha lỗi cho em... Em dối anh, em lừa anh tội nghiệp! Anh yêu
em, em biết... Đôi lúc, em muốn đền ơn... nhưng không ngờ, em đền ơn bằng cái lụy.
Em hối hận lắm, vì vậy, bữa nay, em thú với anh đời thực của em... Nghe em nói,
anh đừng giận, xin anh chỉ chút tình thương.
"Câu chuyện em nói với anh buổi đầu không phải chuyện thực. Em bịa ra để cầu
sự thương xót của anh. Em chẳng là một trinh nữ, - khốn nạn! Em là con yêu quái
hại người. Em không là một người của Hoàng phái xứ này... Em, sự thật cùng với
anh giống nòi: một thiếu nữ mười năm về trước sống ở Hà Nội. Vâng ở Hà Nội, hồi
ấy em mới có mười lăm. Nhưng sớm bị dạn dày với tình yêu, rồi lăn lóc với người
đời. Em yêu hết người này, khi chán, lại đến người kia... rồi trong cuốn sổ tay
ghi tên tuổi các gã nhân tình, em thấy tên một chàng lính lê dương đáng để em
âu yếm nhất. Sau, chàng lính đó hết hạn tòng cơ, em theo chàng sang đất Lào lập
nghiệp. Ở đây chẳng được bao lâu, chàng mắc bệnh thương hàn mà chết. Đang lúc
bơ vơ, một gã trai trẻ người Lào cầu em gắn bó. Em ưng thuận, vì sau cuộc dò la
kỹ lưỡng, em biết gã có thể làm cho em sung sướng, giàu sang. Quả vậy, gã không
phụ lòng sở nguyện của em. Gã hẹn cùng em làm một nghề tuy nguy hiểm nhưng mau
giàu: nghề buôn thuốc phiện không chịu thuế. Có tiền, em tha hồ phung phá, đánh
bạc. Trong cuộc đỏ đen, nhiều lần em mất tới hàng ngàn.
"Hồi vận đang may, bỗng một chuyến buôn chúng em gặp lính đoan rình sẵn
trong rừng. Gã bạn của em trốn thoát, riêng em bị bắt và "gánh" nửa
năm tù! Nằm đề lao hai tháng, không chịu nổi, sau nhờ một dịp may, em vượt ngục
vào một đêm giông tố...
"Ra ngoài, gã bạn em muốn nối lại tình xưa, rủ em làm nghề nọ... Em liền
đi chuyến nữa, kết quả được phát tài. Nhưng sở tuần phòng truy nã riết, em sợ
hãi phải bỏ y phục An Nam, đeo lốt người Lào. Sau vì một sự bất bình riêng, em
bỏ gã kia; oán thù, gã định tố cáo tội em... Rồi đêm ấy, đang đứng bên bờ sông
vắng, em gặp gã theo rình, em chạy đến gõ cửa nhà anh... núp mình dưới bàn tay
che chở của anh... anh yêu em, tuy vậy, em ngờ sẽ có ngày anh hững hờ chán
ghét, đuổi em đi... nên em nhẫn tâm, cố ép anh hút thuốc... bây giờ than ôi,
anh nghiện nặng... anh tha thứ cho em...
"Nghẹn lời, nàng bưng mặt khóc rưng rức. Lòng tôi tê tái, nổi giận điên cuồng.
Thế ra, tôi bị lừa. Tôi đã ôm ấp một con rắn độc? Tôi đã yêu, tôi đã nghiện vì
một kẻ nữ tù vượt ngục đó sao?
"Tôi muốn bóp cổ con tinh ấy..., tôi muốn, nhưng một khuôn mặt đẹp như
hoa, một tấm mình thanh như liễu... ai nỡ lòng nào!
"... Tối sau, chúng tôi hút xong, vừa đi nghỉ thì cánh cửa lung lay, tựa
có người đẩy mạnh. Như linh tính báo trước, nàng can đảm vùng ngồi lên, lật gối
lấy chiếc dao nhọn, nắm chắc trong tay, rón rén đến nép mình trong khe cửa, hai
mắt giương to... Tôi cũng đi nhẹ chân, cầm một vật thủ thân, tiến đến cạnh
nàng... Dần dần, cánh cửa hé to, một cái đầu rũ tóc đen trũi thò vào... Quả quyết,
nàng giơ thẳng mũi dao, hạ xuống... Một tiếng kêu, tiếp đến một người ngã lăn
xuống đất.
"Nàng đánh diêm soi, nhận thấy rõ xác kẻ thù, nàng hả hê, cười lạt. Tôi
choáng váng, nhìn mấy dòng máu đỏ chảy loang.
"Khắp tỉnh ồn ào về vụ giết người mà thủ phạm là một thiếu nữ tuyệt xinh,
người ta tưởng hai bàn tay trắng nõn không đủ sức trói con gà nhỏ. Ra tòa, nàng
bị án khổ sai biệt xứ. Thế là tơ duyên đứt đoạn, nhìn nàng đeo áo số ra đi, tôi
đau đớn biết nhường nào...
"... Ba mươi nhăm năm qua mất, đến bây giờ là cõi già nua! Nàng đi, tôi vẫn
sống trong gian nhà cũ và muốn lưu lại chút kỷ niệm tình xưa, tôi vẽ hình nàng
rồi thuê một nhà điêu khắc tạc thành pho tượng mà tối nay cậu trông thấy. Mỗi lần
tiêm thuốc, tôi nhả khói lên pho tượng, làm thế, tôi muốn nàng trọn kiếp say
sưa... Bảy năm qua, cậu không thấy mặt tôi vì (hẳn cậu không ngờ) tôi sang xứ
khác để theo nghề buôn thuốc của nàng. Nhưng rủi ro, năm phen thất bại, năm
phen tôi phải ngồi tù. Hết hạn tù lần chót, tôi chán nản không còn chí làm giàu
nữa.
Hiện giờ, tiền hết, lực suy, tôi an phận nghèo mà vui sống nốt quãng tháng ngày
tẻ lạnh...
Đó, cái dĩ vãng của tôi, - tôi, một lão già khốn nạn bỏ quê hương mà lăn lóc
nơi xứ lạ, đất người bấy nay".
Đêm càng khuya, gió càng thổi rít từng
hồi ngoài rừng. Lão Xương đốt đuốc đưa tôi ra bến dắt tay tôi tiễn xuống thuyền.
Chờ tới lúc tôi đã đặt chân trên bến bên kia, lão mới quay về nơi xóm vắng...
Trong khoảng tối tăm mờ mịt, bó đuốc trên bàn tay run rẩy của lão già cô độc bốc
cao ngọn lửa, rồi khoảnh khắc, chỉ còn chút than hồng bay tan tác trong
sương...
° ° °
Nửa tháng sau, một buổi sáng, lúc đẩy tấm cửa gỗ đổ xiêu mục ải, bước vào gian nhà ẩm thấp, tôi rợn mình, trông thấy lão Xương... lão Xương, hai chân quặp vào đống chăn cũ rách, nửa người buông nghẹo xuống gần mặt đất tanh hôi đọng vài giọt máu đã bầm tím. Bên sườn lão, bộ khay đèn bẹp vỡ, năm hộp thuốc phiện mở nắp sạch như chùi. Con khỉ co quắp nằm cạnh cái xác người, còn pho tượng khỏa thân như bị ai đập nát, tan thành nhiều mảnh, rải rác ngổn ngang...
Trong cảnh tàn khốc ghê gớm ấy, tôi thấy thần trí rối loạn, và thở dài, tôi lẳng lặng quay ra. Tôi phân vân, không thể đoán chắc rằng lão già và con vật khốn nạn kia chết vì no thuốc hay vì đói thuốc, hay vì quá điên cuồng, hay vì không chịu nổi những ngày trơ trọi.
In trong Một đêm vui, tập truyện ngắn, NXB. Tân
Dân, H., 1937.


No comments:
Post a Comment