Nhớ Để Mà Quên
Chuyện
tự dựng từ bối cảnh tới vai trò, nhân vật và tên người.
1
Hậu rớt Tú tài Hai mùa thi năm đó. Hậu thất
thểu bên vệ đường giữa cái nắng cháy nung người trong ngày xem kết quả. Lặng lẽ
về lại Gò Dầu, gom góp hành trang vào hai ba túi xách, từ giã bà bác thương cho
ở trọ từ làng quê xuống, căn gác mình đã sống, đã gọi là nhà, rồi âm thầm bỏ Gò
Dầu. Hậu ra đi gần như là trốn chạy. Đầu hạ, nắng nung người nhưng lòng Hậu buốt
lạnh, tiếng nhạc vẳng ra từ quán nước cuối ngã ba dốc chợ quen ngày nào, kéo
dài, xót xa như khúc tơ chùng phím lỡ
Hậu cúi mặt đi, để đừng thấy dãy hành lang
thơm mùi tường vôi mới, nơi Thư thường đứng bên, thả tóc bay đùa nắng trong giờ
ra chơi. Hậu tránh né mớ cành lá khẳng khiu nằm gãy vụn trên đường về quen
thuộc, để đừng ai biết là mình đã qua đây. Cái
phố quận nghèo nàn chợt biến tan theo cổng sắt sân trường từ từ khép,
tên Thịnh, Hân, Thư in hằn rõ trên bảng niêm yết, Hậu rụng rời câm nín, bỏ Gò
Dầu như một người bại trận. Chắc rồi, anh Tùng, Hậu cũng phải vào lính, ở đây
bây giờ bọn anh không có sự lựa chọn nào khác, Hậu chưa kịp đuổi sầu đi trong
đời mình thì buồn đã ở lại.
*
Hậu lang thang ở Sài Gòn những ngày sau đó,
như con chim sâu nhỏ lạc bầy, từ căn nhà sàn bên cầu chữ Y đến cái gác trọ xiêu
vẹo trong ngõ cụt Bảy Hiền rồi Thị Nghè Bà Chiểu. Hậu đếm vội ngày tháng đời
mình trong niềm vui nỗi buồn của những người lạ không quen trên đường phố. Hậu tình
cờ quen Trung, trong một bữa cơm chiều tại quán cơm chay cạnh hông ga xe lửa
Sài Gòn, khi đến ngồi chung bàn vì quá đông người không còn chỗ.
Trung vừa xong năm thứ nhất trường Quốc gia
Sư Phạm. Nhà Trung ở Phú Giáo Bình Dương, vùng đang chịu nhiều áp lực của Bắc
quân từ mật khu Hố Bò Tam Giác Sắt. Trung vừa thi lại Tú tài Hai, cùng lượt với
Hậu nhưng không đậu. Hậu cho biết cũng rớt như anh, chờ ngày khăn gói vào lính,
giã từ sách vở. Hậu theo Trung về nơi anh đang ở trọ chung với một người bạn
khác, cũng từ Bình Dương xuống, căn gác cây không cũ lắm trong khu hẻm đường
Cộng Hòa, gần trường Sư Phạm. Ngồi trên gác nhìn xuống đường ba người nói
chuyện tới khuya. Hậu dọn về ở chung với Trung vài ngày sau, cũng với ba cái
túi xách bạc màu bằng vải bố.
*
Hậu nghe lời Trung thi vào trường Quốc Gia
Sư Phạm. Giấy trúng tuyển nhập học lớp giáo sinh năm thứ nhất, đủ điều kiện cho
Hậu được cái thẻ hoản dịch một năm. Hậu yên tâm đứng ngoài quân trường. Cũng
trên gác trọ ở cái quận lẻ nghèo nàn, Hậu ấp úng nói tiếng yêu Thư ngày nào,
bây giờ cũng trên gác trọ Hậu phải cố nén lòng quên dù có nhớ. Hậu viết thư
thăm vài người quen nhưng không đề địa chỉ người gởi. Hậu cũng gởi cho Thư một
cái thư rất dài, trong thư anh xin lỗi Thư đã bỏ đi không có lấy một lời từ
biệt, cám ơn Thư đã cho Hậu niềm vui mà anh không dám nghĩ tới trong khúc quanh
đời nghiệt ngã này, Hậu sẽ giữ nó như một báu vật trong mớ hành trang nghèo nàn
dù phải gắng quên trong niềm đau dằn dặt. Bỏ thư vào thùng ngoài cửa Bưu điện,
trên đường băng ngang nhà thờ Đức Bà, đứng lặng lẽ nhìn theo những tia nắng
chiếu yếu ớt còn sót lại, cố vương theo tượng Chúa trên nóc cao, Hậu bâng
khuâng nói một mình,” xin cho con lẩn khuất đâu đây trong trăm nẻo đường
định mệnh”. Chiều thứ sáu, Sài Gòn tấp nập người, chuông thánh đường chưa
đổ.
*
Hậu gặp lại cô Sang vài ngày, trước lễ
Giáng Sinh tại cổng trường tiểu học Bàn Cờ, nơi anh và vài người bạn cùng lớp
đến dạy thực tập. Tan trường, đứng nói chuyện với chị Trang, cô giáo lớp ba mà Hậu
vừa tập dạy bài sử ký “Bắc Bình Vương”, trong khi chờ xe buýt bên kia
cổng trường, không lâu thì chị có người nhà đến đón. Cô Sang chưa kịp ngừng hẳn
xe Honda lại đã gọi tên, khi Hậu định bỏ đi vì chuyến xe buýt về Ngã Sáu vừa
tới. Đứng bất động trước mặt cô Sang, Hậu rưng rưng muốn khóc, không nói được
tiếng nào. Chị Trang kinh ngạc nhìn Hậu rồi nhìn cô Sang muốn hỏi gì nhưng lại
thôi. Thì ra cô là người chị mà chị Trang đang chờ.
Ba người đứng bên lề đường thật lâu, nhưng
nói chẳng bao nhiêu, Hậu cũng không biết tại sao, mặc dù có nhiều điều muốn nói
như anh đã từng nói, mỗi khi có chuyện buồn trong những ngày trên trường quận.
Cô Sang đổi về trường trung học Lê Văn Duyệt, gần ngã tư Bảy Hiền, đầu năm nay
sau hơn mấy năm dạy trên Gò Dầu. Một lần nữa xe buýt tới, cô Sang đưa vội cho Hậu
tờ giấy có ghi địa chỉ nhà, dặn nhớ tới. Xe buýt chạy một quảng khá xa, hai chị
em cô vẫn còn đứng yên ở đó.
*
Đêm Giáng sinh, Hậu đến ăn lễ nửa đêm với
gia đình cô Sang, Trung và Sinh lang thang đâu đó trong đám người đông nghẹt
ngoài đường phố Sài Gòn cũng như những lần Giáng sinh năm trước. Đêm Giáng
sinh, Sài Gòn không giới nghiêm, xe cộ rầm rập ngược xuôi, dù đã quá hai ba giờ
sáng, người Cảnh sát gát đêm, đứng lẻ loi trên ngã tư đường chờ sáng. Trời có
chút sương mù mờ lành lạnh. Tim Hậu chợt buốt đau theo từng bước chân mình trên
đường về gác trọ, khi nghe tiếng chuông cuối đêm từ nhà thờ Đức Bà chầm chậm
đổ. Chút kỷ niệm vụn vặt đêm Giáng sinh năm xưa trong hồn vụt sáng rực, tưởng
chừng như Thư đang đứng ở cuối đường về. Hậu gục đầu trong cái bóng đêm mịt mù
trên gác trọ, cố xua đi nỗi nhớ.
Sau Tết ta chị Sang lập gia đình, sau nầy
cô Sang không cho Hậu gọi bằng cô vì gọi cô thấy xa lạ quá, hơn nữa Hậu cũng đã
lớn hơn xưa rồi. Chồng cô, anh Hưng, hiện là một trong những viên chức cao của
Tòa Sơ thẩm Sài Gòn. Hai vợ chồng dọn về nhà mới, một căn biệt thự nhỏ nhắn gần
bệnh viện Bình Dân trên đường Phan Thanh Giản. Chị Sang muốn Hậu chọn, hoặc về
chợ Hai Bà Trưng ở với chị Trang và bác gái hay về ở với chị, Hậu từ chối cả
hai, cái cầu thang gác trọ, tiếng mưa lộp độp trên mái tôn, hình như đã là một
phần đời mà Hậu thương Hậu nhớ từ thuở mới chập chững vào đời.
*
Sài Gòn lúc này thường có xuống đường biểu
tình, chống Mỹ, chống chánh phủ, chống tham nhũng... hết phong trào này đến
phong trào kia, nhóm sinh viên ở Đại học xá Minh Mạng có vẻ hăng say nhất, đâu
đâu cũng có mặt họ, họ đã đốt cả quân xa Mỹ trên đường. Phong trào “Phụ Nữ đòi
quyền sống” gì đó cũng ồn ào không ít, mấy cô sinh viên Văn khoa cùng đủ
thành phần phụ nữ khác, đã nhiều lần biểu tình rần rộ, chật cả bồn binh Sài
Gòn, đôi khi xô xát dữ dội với Quân cảnh Cảnh sát. Trong lớp Sư phạm vì có rất
nhiều bạn vừa học Sư phạm vừa học thêm Văn khoa, Luật khoa cho nên tin tức nào
cũng có.
Cuối năm thứ nhất Sư phạm, Hậu, Sinh, Trung
đậu Tú tài Hai với tư cách thí sinh tự do, sau những ngày cơm chay cơm mặn.
Trung và Sinh còn phải thi tốt nghiệp ra trường. Chị Trang lần này đãi Hậu một
bữa ăn thật lớn tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, ngoài bến Bạch Đằng. Ngày bọn Hậu đi
lãnh chứng chỉ ở Nha Khảo thí, gần trường nữ Trưng Vương, là ngày Trung nhận nhiệm
sở về chợ Bún, Lái Thiêu, Sinh thì về Hàm Tân, Bình Tuy. Họ làm bữa tiệc chia
tay nhỏ trên gác trọ, Hậu theo Trung về Phú Giáo chơi, ba má Trung cho bọn họ
ăn một bữa bánh tráng tươi cuốn cá lóc tại nhà, má Trung chuyên làm bánh tráng,
bỏ mối cho các chợ trong vùng, đôi khi chở ra tận Củ Chi, Hậu chia tay Trung và
Sinh từ đó. Một mình Hậu ở lại, căn gác trống trơn và vắng ngắt dù anh vẫn ngày
hai buổi đi về.
*
Một năm lặng lẽ đi qua trong buồn vương
buồn vấn, một năm mà Hậu đã chôn kín đời mình trong mộ yêu thương ray rứt. Thư bây
giờ ở đó, Hậu lẩn khuất quanh đây, trách trời cao làm nên định mệnh. Dù không
có Thư, nhưng Hậu vẫn coi Thư là lý do duy nhất để chối từ tình yêu của Quỳnh Di,
con gái của cô Hảo, giám thị trường Nguyễn Bá Tòng, đang học cùng chung lớp. Hậu
ghi danh học Luật khi bắt đầu lên năm thứ hai Sư phạm. Phong trào Phụ Nử Đòi quyền
sống lại xuống đường, lần này có bạo động, có người chết và người bị bắt giam,
phần lớn là mấy cô sinh viên Văn khoa. Mấy chị có ghi danh học Văn khoa cùng
lớp với Hậu, bàn tán xôn xao chuyện bắt bớ, ai cũng nhắc nhiều lần tới người
được gọi là Phát ngôn nhân của Phong trào, họ bảo người này có lẽ bị nặng tội
nhất.
Buổi trưa, trên đường trở lại lớp, sau khi
xong giờ thực tập bên trường Sư phạm Thực Hành, Hậu hỏi chị Ly, đang học năm
thứ hai Sử Địa Văn khoa, ôm mộng đậu cử nhân sẽ chuyển ngạch giáo sư trung học,
chuyện bắt bớ xuống đường hồi sáng. Hậu rụng rời khi chị cho biết người Phát ngôn
nhân nặng tội tên là Thư, có gia đình giàu có ở Gò Dầu. Thư là người hoạt động
hăng say nhất và là một trong hai ba người thân cận của Chủ tịch phong trào. Hậu
đứng lặng câm dưới chân cầu thang lên lầu lớp học, không còn nghe được chị Ly
nói gì thêm nữa.
2
Hậu không đến trường vài ngày sau đó, lang
thang trên đường phố Sài Gòn mặc cho trời nắng chói chang hay mưa dầm mờ mịt,
không cần biết nơi dừng lại. Đứng đơn độc ở một góc đường hay ngồi lặng thinh
trên ghế trống công viên, Hậu muốn đừng ai nhận ra mình nhưng mong sẽ thấy được
Thư đâu đó. Hậu nằm vật vã, mặc cho nỗi đau xé nát lòng, trong bóng đêm dày đặc
trên gác trọ lạnh lùng.
*
Hậu đứng chờ trước cổng nhà Thịnh, mấy cột
hàng rào sắt vẫn còn phủ kín dây leo hoa dại tím như ngày nào. Cư xá Lữ Gia
chiều về có vẻ thưa vắng. Chị Hương, chị tư của Thịnh, ôm chầm lấy Hậu xúc
động:
-
Trời ơi đi đâu mà mất biệt vậy Hậu?
Hậu chỉ gọi chị Hương rồi nghẹn tiếng. Vào
nhà, chị Hương buồn giọng hỏi:
- Em
đi đâu không cho ai hay ai biết gì hết, ba mẹ chị giận lắm, người quen ai nấy cũng
tìm khắp nơi. Gần hai năm rồi chớ ít sao, thằng Thịnh không lúc nào yên, hể
nhắc tới em thì lầm lũi không nói với ai tiếng nào, tại sao vậy em?
Hậu lặng im ngồi trong góc phòng, chị Hương
bỏ vô nhà trong lo cơm chiều nói vọng ra:
- Thịnh
mới lấy xe đi mua cái gì đó.
Ngoài sân hình như trời bắt đầu sụp tối, Hậu
vẫn ngồi bất động mặc dù chị Hương nhắc vặn đèn lên, lòng cay xé nhìn tấm hình
chụp chung, đủ mặt Thư, Hân, anh Tùng, Thịnh trong ngày ghi danh học đệ Nhất
trước cổng trường, trên đầu tủ sách sát cửa sổ. Có tiếng xe và tiếng con gái
hỏi han gì đó vào sân. Chị Hương nói
vọng lên từ nhà sau:
- Thịnh
nó về đó.
Luân không buồn đứng dậy. Thịnh đẩy cửa vào
có Hân theo sau, cả hai đứng khựng người. Thịnh lắc đầu không ngờ:
-
Mầy đây sao Hậu?
-
Anh Hậu! Hân ngậm ngùi gọi.
Hai người ngồi xuống cùng một phía với Hậu,
Thịnh trách móc:
-
Mầy bậy thiệt, với ai thì tao không nói, với tao mầy cũng không nói tiếng nào,
trừ cái thư tao nhận được không đầy mươi chữ. Nhiều người buồn vì mầy lắm!
Tiếng chị Hương gọi ăn cơm, ba người họ vẫn
ngồi lặng im, bên khung cửa nhà ai đối diện đã có ánh đèn. Đêm xuống tự lâu
rồi. Hân ở chơi tới khuya mới chịu về. Hậu ngủ lại nhà Thịnh, hai thằng kể cho
nhau nghe chuyện giòng đời xuôi ngược trong gần hai năm biền biệt. Ngày đi xem
kết quả, không thấy Hậu, không thấy tên Hậu trên bảng niêm yết, Thịnh hiểu
chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng không ngờ là nó xảy ra quá sớm. Thịnh cùng Hân, Thư
trở lại Gò Dầu, vội đến gác trọ tìm thì Hậu không còn đó nữa. Thư khóc tức tưởi
mấy ngày, Hân thương bạn không cầm được nước mắt.
*
Vào Đại học, Hân và Thư gặp nhau rất thường
trong những tháng đầu, đi chơi chỗ này chỗ nọ, nhưng mấy lúc sau này ít thấy Thư,
nhất là những lần đi xa Lái Thiêu Vũng Tàu đều không có Thư, mặc dù cô ta là
người lăng xăng nhất. Thịnh và Hân đến nhà tìm Thư đôi ba lần nhưng lần gặp lần
không, lúc nào cũng thấy Thư có vẻ bận rộn chuyện gì đó. Sau mùa thi cuối năm,
Thịnh mới biết Thư thường có mặt trong đoàn người xuống đường chống đối chánh
phủ. Thịnh còn cất giữ tờ Đại Dân Tộc, hình Thư dẫn đầu đám người biểu tình
thấy rất rõ trên trang nhất. Thịnh lắc đầu ngao ngán, Hậu cúi mặt nghẹn lời,
không ai muốn biết vì sao. Bạn bè cũ giờ cũng đã tan tác theo đời. Thành chết
trên chiến trường Quảng Đức vài tháng sau khi rời Đồng Đế. Triệu, Đức, Tòng
theo đơn vị đóng mãi tận Sơn Chà. Anh Tùng rời Võ khoa Thủ Đức, hiện về lại Gò
Dầu làm sĩ quan Tâm Lý Chiến.
*
Hậu cùng Thịnh đến nhà chị Sang, gặp anh
Hưng để biết tin chính xác về Thư như đã nhờ anh Hưng hôm trước. Chị Sang ngạc
nhiên vì sự có mặt của Thịnh, Hậu đành giải thích sự việc. Từ Tòa Án về, trong
bữa cơm chiều mà chị Sang bắt Hậu phải ở lại ăn, anh Hưng xác nhận đúng là Thư,
theo chi tiết lý lịch mà Hậu cho biết, đã bị bắt với tội danh sơ khởi, chống
chánh phủ VNCH, hiện đang bị giam giữ tại Nha Cảnh Sát Đô Thành, anh nói thêm
họ có cho phép gia đình từ Gò Dầu vào thăm hôm qua. Chưa có hồ sơ chánh thức gì
gởi qua Toà, cho nên anh Hưng bảo ráng chờ vài bữa nữa xem sao rồi tính, anh
hưá sẽ cố theo dỏi chuyện này. Hậu và Thịnh trở về nhà cho chị Hương biết, ba
chị em ngồi lặng thinh. Sài Gòn mùa này vắng mưa.
Chiến trận xem ra tăng dần khắp nơi, áp lực
Bắc quân càng ngày càng đè nặng hơn. Hết trận chiến Hạ Lào, Tân Cảnh Đakto, rồi
mùa hè đỏ lửa.. Sài Gòn tưởng chừng khó thở, nghĩa trang quanh đây đã có màu
vôi sơn trắng. Ngõ ra quân xa đùng đùng chở lính trận ra chiến trường, ngõ về
hàng hàng đưa thương binh về bệnh xá, như điệp khúc trong một bài hát dỡ dang
mà người nhạc sĩ chưa tìm ra đoạn kết.
*
Chủ Nhật, sau khi xong lễ sáng ở nhà thờ
Chúa Cứu Thế Kỳ Đồng, chị Sang đến cho Hậu hay tin Thư đã được trả tự do, có lẽ
do áp lực chính trị từ phía Mỹ. Hậu mừng như cái mừng của một người chết vừa
được cứu sống lại, đứng ngồi không yên. Hậu quá giang chị Sang qua nhà Thịnh
trên đường chị về nhà. Chị Sang bỏ anh ta xuống ngã ba Tô Hiến Thành, dặn nếu
muốn biết thêm gì nữa thì gặp anh Hưng. Thịnh và Hân tới trường Sư phạm rủ đến
nhà Thư, Hậu từ chối, Thịnh đoán biết lý do cho nên không nài nỉ lắm. Thịnh không
gặp Thư, người dì bà con cho tin là Thư đã về Gò Dầu. Hai thằng thở dài nhẹ
nhổm, thôi vậy cũng yên lòng, ít nhất Hậu vẫn còn có Thư đâu đó. Cuối tuần, từ Gò
Dầu về, Thịnh qua gác trọ với Hân gặp Hậu, Thịnh ghé nhà, ba má Thư bảo là cô
có về ở chơi vài ngày, rồi trở xuống Sài Gòn sắp xếp đi học lại. Hân đến nhà
tìm, Thư không có đó. Hậu sững sờ buồn vui không biết. Thịnh cũng đến tìm đôi
ba lần sau, Thư thật sự bỏ đi và có lẽ là chuyến đi biền biệt. Đứng trên gác,
nhìn về phía chân trời xa, Hậu thầm mong nơi mà Thư ở vẫn còn chút mặt trời.
*
Hậu về dạy lớp Bốn trường tiểu học Bà Rịa.
Nhà ở thuê là một căn nhà ngói kiểu cũ trên đầu dốc tới trường. Hậu bắt đầu
cuộc sống ông giáo làng, ngày hai buổi đơn lẻ đi về với bảng đen phấn trắng,
với đám học trò không chợ không quê, nhỏ nhắn vô tư, lúc nào cũng cao giọng đọc
theo lời thầy dù trên mái tôn lớp học có nắng cháy nung người hay mưa tuôn xối
xả. Thịnh và Hân cũng như chị Sang viết thư thăm rất thường. Quỳnh Di cũng gởi
cho Hậu mấy cái thư, vẫn nỗi niềm ngày xưa mong Hậu nhớ. Chợ chỉ có mấy con
đường, đi lên đi xuống chưa kịp qua bóng mình soi nắng thì đã về chỗ cũ.
Dạy ở Bà Rịa chừng vài tháng, Hậu đồng ý
thuyên chuyển về Vĩnh Long với một cô vừa lấy chồng về Bà Rịa. Hậu về Sài Gòn ở
chơi với Thịnh vài ngày trước khi xuống nhiệm sở mới. Ngày đi, cũng hai ba cái
túi xách bạc màu ngày nào, Thịnh, Hân, chị Sang tay xách tay mang, tiễn Hậu tận
xa cảng Phú Lâm, theo xe đò xuôi về Vĩnh Long đường dài sông nước.
*
Trường tiểu học Cái Nhum, Minh Đức, nằm
cách văn phòng hành chánh quận một con đường nhiều đất hơn đá. Từ trường đi qua
chợ, dãy nhà mái tôn trống không tường che với vài chục sạp bán hàng, chừng dăm
ba phút. Cuối chợ là bến đò, lúc nào cũng có người lên người xuống, nhất là
sáng sớm, bạn hàng neo ghe ở đây rồi đón xe lên Vĩnh Long mua bán. Xuống Vĩnh
Long, được sự giúp đở của bác Trưởng ty Giáo dục, Hậu đến ở chung với hai anh
nhân viên của tòa Hành chánh tỉnh, gốc Trà Ôn, tại căn biệt thự cũ, trước làm
văn phòng của người Mỹ nằm sau lưng trường trung học Tống Phước Hiệp.
Buổi
sáng, Hậu thả bộ ra đầu chợ, đón chuyến xe đò nhỏ duy nhất chạy đường Vĩnh Long
Minh Đức tới trường, bến xe sát bên hàng rào. Nếu trễ, Hậu phải lên chuyến Vĩnh
Long Vũng Liêm, xuống tại ngã ba Cái Nhum, chờ quá giang ai đó vào chợ. Trường
không nhiều cô thầy, chợ cũng không mấy ai, cho nên người nào cũng quen mặt. Hậu
ít phải lo bữa cơm trưa vì gần như ngày nào cũng được cha mẹ học trò mời về nhà
ăn canh chua cá lóc, cá tra vừa chua vừa ngọt. Học trò đứa chân dép chân trần,
thương thầy thương cô như cha như mẹ. Trời nóng giữa trưa, ghé qua cái quán
nước mái che bằng liếp dừa tại bến đò, cô gái bán hàng thân mật gọi tiếng thầy,
không chịu nhận tiền ly trà đá. Tan trường, ra bến về Vĩnh Long, người chủ xe
đã dành sẵn chỗ.
Hậu
ít khi về Sài Gòn, thư Thịnh thăm hỏi nhận được luôn, bài vở học hành từ trường
Luật có chị Sang, chị Trang gởi xuống. Cuối tuần, đón xe lôi máy ra ngã ba Mỹ
Thuận, xuống phà qua sông, ăn cơm chim mõ nhát rô ti, nhìn khách thập phương
ngược xuôi mấy nẻo đi về cho lòng bớt cô quạnh. Ngày lễ theo mấy người bạn mới
quen, xuống Chợ Lách ăn ốc gạo luột chấm nước mắm cay, khi nước lên mùa ốc.
Thịnh có về Gò Dầu kể từ ngày không còn gặp
Thư. Ai đó, người quen ở chợ quận, cho Thịnh biết, bạn hàng lên xuống chợ trời
nói là thấy Thư với hai ba người lạ, còn trẻ đi ngược qua phía bên kia biên
giới Miên. Hậu đã bao lần ngồi thẫn thờ bên bàn trong lớp học, dấu kín buồn
trong tập giấy học trò.
*
Thịnh báo tin sắp làm lễ đính hôn với Hân, nhắc
Hậu nhớ về. Nhớ Thư, Hậu lặng câm, cái hy vọng ấp ủ trong lòng chừng như đã
chết giữa đời trong những đêm dài không ngủ. Cái Nhum bây giờ là mùa mưa, mưa
đầu mùa chập chùng trên sông, bên kia sông và tận phía chân trời. Đường vào sân
trường Cái Nhum bắt đầu bùn lầy và trơn trợt. Thư vẫn mù xa thăm thẳm như chim
bỏ phố về lại núi cổ rừng xưa. Ngồi trong lớp học nhìn mưa, đám học trò chân
trần, chân dép mòn xẹp lép, đuổi nhau đua hứng những giọt mưa nhẹ rớt ngoài sân
chơi, sân chơi loang lỡ bùn, cười nói giòn giã như tiếng mưa rơi trên mái tôn
nghèo chợ quê, Hậu thở dài “vĩnh biệt”.
Thuyên Huy
Viết lại chuyện của người 2025




No comments:
Post a Comment