Saturday, August 30, 2025

Phận Đời Của Đời - Thuyên Huy

 

PHẬN ĐỜI CỦA ĐỜI

Để nhớ một câu chuyện cũ, thương cho một người

 


1

    Ngồi lặng im trên cái ghế, kê gần tủ thờ ông bà giữa nhà, nghe ba tôi kể lại câu chuyện mà tôi muốn biết của hơn mười mấy năm trước đây. Giọng ông trầm trầm, má tôi ngồi trên bộ ván gỏ nung bên cạnh, đăm chiêu nhìn, không thêm không bớt lời nào. Mới xế trưa mà ễnh ương đã kêu dài ngoài đám ruộng sau vườn, cây bưởi góc sân rụng đầy hoa trắng.

    Tách nước trà cạn dần theo từng lời ông nói. "sau khi đứa con đầu và duy nhứt của ba má bị bệnh chết trên tay của má con, sau hai đêm ở bệnh viện quận, trên đường từ Gò Dầu xuống Sàigòn vào bệnh viện. Má con buồn bả như người mất hồn, ba quyết định đi xin con nuôi. Nghe vài người quen chỉ, ba lên Tây Ninh, tìm trúng nơi nhà cô tư Hòa. Ba kể lại chuyện và cuối cùng cô tư đồng ý cho con làm con nuôi. Gia cảnh cô tư hay má ruột của con lúc đó có vẻ thiếu thốn. Ba nhận ẳm con về, gởi lại cho cô tư một số tiền, số tiền này tuy không nhiều, nhưng trong thời buổi đó tiền có giá lắm. Hôm đó cả nhà mẹ ruột con khóc sướt mướt. Ba có hứa với cô tư khi con hai mươi tuổi, vào đại học, ba sẽ cho con biết chuyện này, giờ thì con hỏi, thôi cũng đến lúc con cũng cần biết, đó chuyện là như vậy”.

    Ba tôi ngưng ở đó, má tôi kéo vạt áo bà ba xám lên lau mắt. Cả ba người lặng thinh, tôi cúi đầu khóc rấm rứt, không dám ngước nhìn lên như một tên tội đồ phạm thượng. Má tôi bước xuống ván, chậm rải đi về phía bên hông tủ thờ, mở cái hộp thiếc cũ, lấy ra tấm hình đen trắng, giấy in đã ngã sang màu vàng đục, bà đến gần đưa cho tôi, tấm hình chụp lúc tôi vừa về nhà ông bà, tròn ba tuổi.

    Bà vuốt đầu tôi nhè nhẹ:

- Chuyện gì mặc chuyện gì, con lúc nào cũng là con của ba má.

    Tôi không kềm lòng được nữa, òa lên khóc nức nở, ba tôi vẫn ngồi yên trên bộ ván:

- Chuyện là vậy đó, bây giờ tùy ở con, hồi nhỏ ba má thương con bao nhiêu thì bây giờ ba má cũng vẫn thương con bấy nhiêu. Cả đời này con vẫn là con của ba của má.

    Nghe ba tôi nói đến đây, má tôi cũng kềm lòng không nổi, bà nắm tay tôi khóc ròng. Tiếng ễnh ương vẫn còn kéo dài ngoài ruộng, trời sắp về chiều. Anh năm Thương tay xách đục cá từ phía sau vườn bước vào, má tôi một lần nữa kéo vạt áo lên lau mắt. Ba tôi lúc bây giờ mới bước xuống ván, anh năm Thương không để ý gì, nhìn tôi cười thoải mái hỏi:

- Mai chừng nào em đi?

- Dạ chắc độ chín mười giờ. Tôi trả lời mà không nhìn anh vì mắt tôi vẫn còn đỏ hoe mắt.

   Anh năm đi ra rồi, tôi đưa tấm hình lại cho má tôi, nắm tay bà nghẹn ngào:

- Con xin lỗi ba má là đã hỏi chuyện này, làm ba má buồn, ba má suốt đời vẫn là ba má của con..

*

    Ba tôi bưng tách nước trà lên, uống một hơi rồi cười thật tươi dù cười không thành tiếng. Nhà tôi ăn cơm chiều trễ hơn ngày thường, dù cho chị năm Thương thúc hối ba lần bảy lượt, chị cứ sợ để lâu mấy con cá lóc mà anh năm bắt về từ xế trưa không còn tươi ngon nữa. Tôi thao thức một mình trong bóng đêm, cố dặn lòng đứng để con sông đời mình có ngỏ rẽ. Tôi chợt mình thức giấc, có tiếng ba tôi tằng hắng ngoài sân sau, trời đã hơn sáu giờ sáng. Ở một góc nào đó, cạnh bờ rào, tiếng dế gáy vang rân. Hình như đêm qua không có tiếng súng.

    Rồi cũng như mọi lần, ba má đưa tôi ra bến tàu, trên sông sương mù giăng kín, tàu ra xa khỏi bờ, bóng ông bà mờ mờ trong màn sương, nước mắt tôi ứa ra, chưa bật thành tiếng khóc.

*

    Sàigòn mấy ngày nay không thấy mưa, nắng nóng chang chang, đường phố mịt mù bụi. Vài hôm nữa thì trời vào hạ, chiến trận ngày càng tăng dần, không thấy dấu hiệu gì giảm bớt. Đám bạn ngày xưa giờ đã chết cho chiến trường gần phân nửa. Nghĩa trang có thêm nhiều bia mộ mới, trắng một màu vôi. Chiếc xe tang, khăn sô góa phụ, tang khăn trắng con thơ giờ trở thành cái gì quen thuộc trên đường phố Sài Gòn hay con lộ đất ngoại ô. Trong cái không khí ngột ngạt của cuộc chiến không hẹn ngày an bình, Sài Gòn vẫn vội vàng sống, dù người đã nhập cuộc hay kẻ còn đứng bên lề. Đôi lần tôi chợt nhớ đến đám bạn cũ, nhớ cái kỹ niệm vui buồn bất chợt của những ngày mới tập làm thơ thương vay khóc mướn, những ngày chập chửng yêu, chạy xe Honda lên xuống qua lại nhà ai đó không dám vào, không dám ngỏ, những ngày ngồi yên lặng cả giờ đồng hồ trên đồi, nhìn trời xa xa, mơ một ngày mai công thành danh toại.

*

    Chiều thứ sáu, sau giờ học cuối, Tùng, thằng bạn ở cùng nhà trọ, qua phòng thí nghiệm của trường Phú Thọ tìm kiếm gì đó, buồn quá, tôi đón xe buýt ra chợ Sài Gòn. Đi lòng vòng cũng không thấy gì vui, tôi bỏ đến ngồi uống cà phê tại quán vắng bên lề đường Lê Thánh Tôn, nhìn kẻ qua người lại trong cái nắng chiều thoi thóp, đổ dài theo từng chiếc lá me bay. Chợt dưng tôi nhớ Bến Cầu vô hạn, nhớ cái giọng trầm trầm mà ba tôi kể lại chuyện của mười mấy năm xưa, để trả lời cho câu tôi hỏi, nhớ tấm hình đen trắng chụp ngày tôi mới lên ba, mà má tôi đã nâng niu như bảo vật trong suốt gần hai mươi năm trời. Tôi nuốt chửng ngụm cà phê thật nhanh để lòng mình không kịp khóc, nhưng đôi giọt còn đọng lại trên môi nghe như mằn mặn.

    Trả tiền xong, vừa lửng thửng định băng qua đường, thì gặp Thảo, cô bạn gái thân và cũng là người tôi thương, đang học bên trường Luật, từ những ngày còn ở trường tỉnh, gia đình khá giả, có bà chị  hai đang là chủ một cửa hàng mỹ phẩm ở thương xá Eden, từ hướng tòa Đô chánh đi tới. Thảo ngạc nhiên thốt lên:

- Ủa anh Hiển, làm gì ở đây?

    Tôi gật đầu chào, chưa trả lời thì Thảo tiếp lời:

- Em từ tiệm bà chị, từ đàng đó lại, định đi kiếm chè bánh lọt về ăn.

    Tôi không thấy vui trong lòng, ráng gượng cười:

- Thảo hết giờ học sớm vậy sao?

- Có anh đây, thôi mình lại tiệm đi, rồi tính đi đâu thì đi, như vậy vui hơn. Thảo nhanh

 nhẩu nói.



*

     Thảo bỏ đi trước, tôi chầm chậm theo sau. Phố đông người và lá me vẫn cứ lả tả rơi. Về đến tiệm, tôi chỉ kịp chào bà chị thì Thảo tủm tỉm cười đứng trước cửa làm dấu đi. Tiệm đang có hai ba người khách bước vào, bà chị đành nhìn theo mà không nói thêm gì được. Băng qua mấy cái ki-ốt nhạc trên đường Nguyễn Huệ, tôi đứng chờ cô nàng đi lại chỗ giữ xe gắn máy lấy xe. Từ đầu này nhìn về bến Bạch Đằng, phía bên kia sông Sài Gòn chiều bắt đầu xuống thấp dần, mây lưa thưa từng cụm tím ngắt. Theo lời Thảo, hai đứa chạy xe Honda ra Phú Lâm ăn hủ tiếu Nam Vang Kim Tháp. Quán đông nghẹt người, chúng tôi chọn cái bàn ngoài mái hiên, nhìn ra quốc lộ Bốn đi miền Tây. Gió chiều thổi ngược về, thơm mùi rạ khô của mấy cánh đồng, chạy dọc theo đường làm tôi chợt nhớ nhà quá, tôi ngồi trầm ngâm nhìn xa xa, tôi quên mất cái cười mà tôi có thường ngày, chuyện của đêm nào ở Bến Cầu đã làm cho hồn tôi cứ ray ray rứt rứt.

     Thảo ngài ngại nhìn tôi, trong khi chờ người bán hàng bưng hủ tiếu tới:

- Anh Hiển hôm nay sao thấy buồn vậy? Em có làm gì để anh giận không?

     Tôi cố vui đáp:

- Đâu có gì đâu.

    Tôi ngưng ở đó, không dám nói gì thêm vì mắt tôi đã rươm rướm đỏ.

    Cả hai, ai nấy đều ngồi lặng thinh. Chờ chị bán hàng bưng hai tô hủ tiếu tới xong rồi bỏ đi, tôi đành xuống giọng vì không thể dằn lòng khi nhìn Thảo buồn rười rượi.

- Thôi mình ăn xong đã.

    Thảo thở phào. Mặt trời chỉ còn ửng đỏ hơn phân nửa ở phía bên kia cánh đồng. Gió thổi nhẹ vào mái hiên quán ăn, bắt đầu lành lạnh.

*

    Người bán hàng một lần nữa, bỏ đi sau khi đặt ly cà phê sửa đá trên bàn. Tôi bưng ly lên uống vài ngụm nhỏ, mùi thơm cà phê làm tôi có phần tỉnh táo và dể chịu. Thảo nghiêm nét mặt chờ. Tôi chậm rải kể “câu chuyện đời mình, chuyện của một thằng bé bị cho đi từ năm mới lên ba và cho đến hơn mười mấy năm sau mới biết sự thật. Tôi kết thúc ở đoạn ba má đưa ra cầu tàu Bến Cầu”, môi tôi mằn mặn, không ai nói lời nào. Lờ mờ qua ánh đèn điện vừa lên, Thảo ôm mặt rấm rức, mắt đỏ hoe, hai người cùng nhìn một phía ngoài quốc lộ, giờ này đường vắng tanh. Bất chợt mưa về ngang hết sức tình cờ, một cơn mưa lẻ loi trái mùa.

    Trên đường về, không ai nói câu nào, về lại nhà trọ, Tùng đứng lang thang trước cửa vẫy tay chào, Thảo đi rồi, Tùng nhìn tôi ngài ngại. Phố bắt đầu vào đêm, nhà bên cạnh có tiếng đứa con gái quen hát nho nhỏ bài  tình ca nào đó.

 

2

    Tôi về Tây Ninh vừa kịp lúc nhìn mặt cô tư Hòa lần cuối. Được tin cô mất, tôi bàng hoàng nhưng không đau đớn lắm như mình tưởng. Tôi cũng không hiểu tại sao dù biết là má ruột của mình. Hình như trong đời tôi cái hình ảnh người mẹ thân cò một nắng hai sương khó tìm được ở cô tư. Những lằn nhăn trên trán của cô tư khi ngồi trước hiên nhà không làm tôi nhớ tôi thương tôi lo bằng lo cho vết nhăn trên mặt của má nuôi tôi, khi bà đứng hong tóc trắng bay lòa xòa, trước gió chiều về muộn sau vườn. Tiếng ho khan vội vàng của cô tư trong giấc ngủ giữa ngày không làm lòng tôi quặn đau bằng tiếng ho đứt quãng của má nuôi tôi trong những đêm mưa chập chùng cuối tháng sáu. Cái tình cảm mẹ con của cô tư và tôi, dù đã cố gắng kéo lại gần nhưng dường như vẫn còn xa xăm quá. Hình như mỗi lần nhắc tới quê mình thì tôi vẫn nói về Bến Cầu hơn là Tây Ninh.







*

    Cái chợ nửa quê nửa ruộng Bến Cầu đó, luân lưu một cách êm đềm, thắm thiết trong từng mạch máu, trong thân thể tôi như những con rạch nhỏ, rạch cùn suốt đời chảy ra sông lớn. Quấn vội cái khăn tang trắng trên đầu, tôi đứng lặng im một mình trước quan tài đặt giữa nhà, nơi mà tôi đã ngồi bật khóc một cách ngỡ ngàng khi nghe cô tư cho biết bà là má ruột. Người đến thăm viếng và phúng điếu bắt đầu đông hơn, tôi đưa tay vuốt nhẹ trên quan tài, môi tôi có chút nước mắt vừa đủ mặn.

*

    Má ruột tôi ra đi rất bình thản vì nghẽn mạch máu tim bất thình lình sau hai hôm nằm trong bệnh viện tỉnh. Từ ngày xuống Sài Gòn, tôi ít khi về lại Tây Ninh, nên tôi không thường ghé thăm bà, ngay cả những lần về Bến Cầu cũng là vội là vàng. Gia đình đem má ruột tôi về chôn ở một nghĩa địa nhỏ, cuối đường lên chợ quận Phước Ninh, cách khu Cao Xá, làng Công giáo di cư từ những năm 54, một khoảng đồng cỏ mọc đầy hoa cải dại, vàng hực trong cái nắng chang chang của trời giữa hạ. Rồi cũng có tiếng khóc, có mấy cành hoa Huệ trắng, có tiếng cầu kinh và nấm mồ đấp vội vàng như những đám tang bình thường. Người đưa đám đứng vòng quanh nấm mồ, nhìn ông linh mục già làm dấu Thánh giá lần cuối cùng rồi tản lần ra và thưa dần. Chiếc xe tang chở theo ông linh mục chầm chậm chạy ra hướng đường cái rồi khuất dần sau hàng cây thốt nốt đầu chợ quận.

*

    Người còn lại không ai nói với ai câu nào, lặng thinh như cái lặng thinh của nấm mồ mới đấp. Ở một ngọn cây già giữa đồng, con quạ đen đậu đó không biết từ bao giờ, bất chợt kêu lên từng tiếng kêu rời rã. Về đến nhà, tôi xếp cái khăn tang nhét vội vào túi xách, từ giã những ai có mặt tại nhà rồi hối hả xuống bến xe, kịp đón chuyến xe đò cuối về Sài Gòn. Mây xám xuống thấp ở một góc trời bên kia sông, nắng bắt đầu dịu dần theo bóng chiều vừa xuống. Xe đò rời phố chính qua cầu, tôi cố nhìn lần nữa qua khung kính sau, hàng cây ô môi hai bên đường lên nhà má ruột tôi nhỏ dần rồi mất hút. Con sông chia đôi thành phố bên đục bên trong, hình như cứ đứng yên một chỗ lâu lắm rồi, dù bây giờ đã là nước lớn, tôi rời Tây Ninh trong niềm đau khó tả.





*

    Trời bỗng dưng sẩm tối rồi đổ mưa hết sức bất ngờ khi xe đò vừa tới đầu ngã tư Bảy Hiền. Sài Gòn chập choạng vài đêm, phố xá thong thả lên đèn trong bóng mưa mù mờ pha chút nắng chiều rớt muộn. Tôi lần theo hàng cây bên đường trốn mưa, đi về phía quán cà phê quen sau khi xuống xe ở đầu ngã tư Trần Quốc Toản, thay vì đi thẳng về nhà. Học trò tan trường vẫn còn tụm năm tụm ba bên góc phố, đếm mưa chờ xe buýt đến. Chọn một cái bàn vắng gần hiên quán nhìn ra đường, tiếng nhạc nhè nhẹ vừa đủ át tiếng mưa, vô tình tí tách ngoài sân. Tôi làm dấu gọi cà phê, cô chủ quán gật đầu không cần hỏi lại. Mưa cứ mưa chập chùng vội vã, nước từng đợt hắt tung tóe xuống đường tưởng chừng như muốn trút giận trút hờn lên những ngày qua nắng bụi. Cô chủ quán, cũng như thường lệ, không quên hỏi tôi mạnh khỏe sau khi đặt ly cà phê trên bàn, tôi chưa kịp trả lời thì cô đã đứng chờ hai ba cô gái phía bàn trong rồi.

*

    Tiếng chuông lễ chiều từ nhà thờ trường trung học Đồng Tiến, lẻ loi ngậm ngùi đổ theo tiếng mưa, không khác gì tiếng con quạ đen kêu trên ngọn cây khô già giữa đồng trong cái nghĩa trang quạnh vắng, nơi má ruột tôi vừa nằm xuống. Tôi không thương Tây Ninh nhiều như thương Bến Cầu nhưng Tây Ninh đã có một chút gì mất mác trong đời mà từ lâu tôi không nghĩ tới.

    Đám học trò chờ xe buýt đã đi từ lâu, ly cà phê trên bàn nguội cũng từ lâu, đôi ba người khách đi ra, hình như tôi chưa uống giọt nào. Tôi rời quán, trời vào đêm lúc nào không hay, đường về mưa chầm chậm thưa dần sau lưng.

 

Thuyên Huy

Viết lại thành chuyện từ một đoạn văn ngắn cũ


No comments: