Hoan
hô, đả đảo
Cũng cứ những năm tôi lên năm, lên sáu
hay lên bảy không còn nhớ kỹ vì tôi viết hồi-ký nên hơi lẩm-cẩm chớ không thể
đích-xác được như cụ Vương-Hồng-Sển viết theo tài-liệu của viện khảo-cổ.
Năm ấy có một ông
quan gì to lắm đi học bên Tây về nước.
Về sau tôi mới biết đó chỉ là một du-học-sinh hồi-hương, sau khi đỗ bằng
kỹ-sư canh-nông tên là Bùi-Quang-Chiêu chớ còn đối với dân-chúng thuở ấy và trẻ
con chúng tôi hễ ai nổi danh là quan lớn tuốt hết.
Kể ra thuở ấy mà đỗ bằng kỹ-sư thì cũng
le thật đó, nhưng cho là nhơn-tài lỗi-lạc thì hơi ngờ.
Cụ Bùi vừa đổ-bộ thì có một anh Tây lai
làm ký-giả tên là De Lachovrotière xuống bến tàu gây-sự với cụ và uýnh nhau với
cụ.
Tức thì cả Sàigòn nổi lên biểu-tình
đả-đảo họ Đờ, cho rằng y đã xúc-phạm đến một nhà đại ái-quốc Annam.
Tờ báo hằng ngày Trung-lập-báo của họ
thì đang chạy như tôm tươi nhờ đăng tiểu-thuyết của nhà văn Phú-Đức, bị
tẩy-chay, không làm được một số, có lẽ nhờ chính ông Phú-Đức cũng tẩy-chay báo
ấy, không thèm viết cho Tây lai nữa, chớ độc-giả thì chắc đã trung-thành với tờ
báo bởi họ mê Phú-Đức quá sá mê.
Hai động-từ hoan-hô, đả-đảo đã được
dùng từ thuở ấy rồi và bọn nhái ranh như tôi cũng hoan-hô đả-đảo còn mạnh hơn
người lớn nữa.
Tôi thú-thật là tôi hoan-hô đả-đảo theo
ông Phú-Đức mà tôi mê, chớ tôi không hề biết ông Đờ, ông Bùi gì hết ráo.
Tôi vẫn cứ là một cậu bé nhà quê nhưng
mọi tháng được theo cha mẹ đi Sàigòn lối ba bốn chuyến nên có thể tự coi mình
là dân Sàigòn ngang xương không thèm mua Trung-lập-báo nữa, lại còn đùa bằng
câu đùa cửa miệng của dân Sàigòn: „Trung-lập-báo nói láo ăn tiền“.
Mãi về sau tôi mới biết rằng cụ Bùi
trung-thành với mẫu-quốc Lang-sa còn hơn anh Tây lai kia nữa, và trận đánh lộn
chỉ là một trận đánh cụi, do công-an Pháp tổ-chức để gây uy-tín cho cụ Bùi mà
phủ Toàn-quyền đã chọn làm „con ngựa“, một chánh-khách có vẻ yêu nước,
trung-lập, nhưng bên trong vẫn cứ là người của Pháp.
Ơ hơ … té ra thuở ấy chánh-trị cũng đã
khá đểu-giả rồi và người ta đã biết dựng đứng lên những anh-hùng dân-tộc rất là
uy-tín … nhân-tạo.
Cũng như vụ đám tang cụ Phan đã làm cho
tôi sợ các tổ-chức, vụ hoan-hô đả-đảo ông Đờ làm cho tôi sợ chánh-trị kể từ
thuở thiếu-thời, mà cái tức ấm-ách là không được đọc tiểu-thuyết đánh nhau
chí-tử của ông Phú-Đức nữa.
Tôi đã thề rằng ngày sau lớn lên, tôi
sẽ viết tiểu-thuyết đánh nhau giỏi như ông Phú-Đức để cho tôi đọc. Nhưng tôi đã lỗi hẹn với tôi vì xin thú-thật
rằng (không phải khiêm-nhường giả đâu nhé) tôi không biết viết loại đó.
Dầu sao, tôi cũng đã phục lăn ông
Phú-Đức đã dám bỏ chén cơm để ủng-hộ một anh-hùng dân-tộc … giả. Nhưng thuở ấy nào ai biết là giả hay
thật. Sự hy-sinh của nhà văn Phú-Đức vẫn
đầy-đủ giá-trị như thường.
Bình Nguyên Lộc
Mùa đổ xoài
Dân-tộc Việt-Nam đã khá văn-minh rồi,
nếu đứng về khía-cạnh xoài mà nói.
Thuở ấy, tháng nầy
xoài mới kết quả, và trái xoài phải đợi mấy tháng trường để lớn lên, để chín,
chớ có đâu mà hăm ba Tết đã có bán xoài như ngày nay.
Nhưng y như ngày nay, vào thuở ấy bắt
đầu các mùa dịch ở Sàigòn.
Vì bài có giới-hạn nên kỷ nầy chỉ nói
đến dịch thổ-tả mà thôi.
Thuở ấy, dân Sàigòn đã trả một giá rất
nặng cho Quan-Ôn, vì ta chưa tin lắm rằng có con vi-trùng, chưa tin nơi sự
linh-nghiệm của việc chích thuốc ngừa, và tệ hơn, ta lại tin rằng chích-thuốc
ngừa dễ chết hơn là cứ để vậy.
Đô-thành đã phải cho cảnh-sát đi đón
đường để lùa khách bộ-hành cho các thầy y-tá chích thuốc, ai mau chơn, thoát
khỏi tay cảnh-sát mới bị Quan-Ôn bắt đi, còn kẻ nào chậm bước được xuống mồ trễ
muộn.
Tuy-nhiên mỗi năm cũng chỉ có vài ngàn
người chết dịch mà thôi, không hơn bây giờ mà mỗi năm cũng có đến vài ngàn cô
cậu cởi xe gắn máy rồi cởi chạy luôn xuống âm-phủ cho hay ta có văn-minh hơn,
biết tự-động đi chích thuốc ngừa dịch-tả, ta cũng chẳng thoát chết.
Ta chỉ hơn người xưa là nhựt-trình có
loan tin ta chết vì cởi xe Honda, xe Suzuki, còn người xưa thì chết âm-thầm
trong nhà thương Chợ Quán.
Vậy Đô-thành đã làm tròn sứ-mạng.
Đô-thành lại còn làm hơn sứ-mạng
nữa. Cứ hễ tới mùa dịch là ty vệ-sinh
Đô-thành phái nhơn-viên săn-sóc vệ-sinh khắp các phố, chỉ-thị rất rõ, chỉ phiền
là rõ đối với người có học, chớ nó rất là mơ-màng đối với người dốt.
Chỉ-thị là xem nơi nào có rác-rến thì
cho sở rác hay sở ấy tẩy-uế, ở đâu bán thực-phẩm sống-sít thì đổ đi, nếu người
bán không bằng lòng mang về đổ lấy ở nhà họ.
Các bác nhơn-viên ấy, không buồn biết
đến con vi-trùng, cho nên những xe bán bánh mì thịt, những gánh bì cuốn ruồi
nhặng xanh, con nào cũng to bằng ngón tay, bu đầy các thúng mẹt, vẫn được yên
thân, trong khi đó thì các gánh xoài sống bị đại-bố-ráp.
„Sống-sít“ của ty vệ-sinh có nghĩa là
không được nấu chín, như bì cuốn chẳng hạn.
Nhưng các bác nhơn-viên lại hiểu rằng đó là trái cây chưa chín.
Xoài có vỏ. Ruồi bu Xoài, chỉ bu ngoài vỏ thôi. Người ăn Xoài, luôn-luôn gọt vỏ mà bỏ. Như thế, ăn Xoài sống, đâu có nuốt phải
vi-trùng như ăn bì cuốn!
Vì sự thi-hành lịnh trên, không được
kiểm-soát, mà ông thông-ngôn dịch hai tiếng „non cuits“ ra là sống-sít, không
giải-thích rõ-ràng, nên xoài sống bị tịch-thu hết gánh nầy đến gánh khác mà dân
Sàigòn vẫn cứ lăn đùng ra mà chết dịch thổ-tả, khiến không ai biết đâu mà rờ
cả, các chị bán xoài không hiểu sao xoài của họ bị tịch-thu hoặc bị đổ xuống
sông Ông Lãnh, sở vệ-sinh không hiểu sao họ hoạt-động mạnh thế mà Quan-Ôn cứ
hoành-hành, các bác nhơn-viên kinh-ngạc thấy rằng họ làm đủ phận-sự mà sếp lại
không vừa lòng.
Thời nay, ta hơn thuở ấy rõ-rệt là
không còn phải nhờ thông-ngôn dịch lịnh trên một cách mơ-hồ nữa!
Tuy nhiên lịnh trên vẫn còn bị thi-hành
sai-lệch (không còn nói chuyện thổ-tả nữa đâu nhé) là tại làm sao?
Người dân mong-mỏi không còn mùa đổ
xoài nào nữa cả. Mùa đổ xoài, nên hiểu là những trường-hợp quan bảo một đường,
thơ-lại làm một ngã, cố-ý làm sai vì lợi riêng, chớ không thể bảo rằng hiểu lầm
chỉ-thị.
Những „Mùa đổ xoài“
là những việc thất-nhơn-tâm do cấp thừa-hành gây ra. Nhưng cấp chỉ-huy nên biết rằng có sự-kiện
sai-lệch ấy! Ra lịnh không chưa đủ. Cần kiểm-soát. Người kiểm-soát phải là những người
đại-liêm-khiết, không có tinh-thần bồ-bịch mới xong.
Bình Nguyên Lộc
No comments:
Post a Comment