Chuyện
bây giờ mới kể.
VÀI DẬT SỰ NGỘ NGHĨNH CHUNG QUANH HAI BÀI
THƠ BÍ HIỂM XUẤT HIỆN DƯỚI THỜI THIỆU TRỊ.
Hai bài thơ bí hiểm ấy, một bài có
nhan đề Vũ trung sơn thủy ( non nước
trong mưa), bài kia có nhan đề Phước viên văn hội xuân dạ mạn ngâm (ngâm
tràn trong đêm xuân ở cuộc hội văn ở Phước viên ). Cả hai bài được khảm bằng xà
cừ lên hai mặt gỗ quý, bố cục thành vòng tròn, các chữ xếp theo cách hồi văn kiêm liên hoàn, mỗi bài được đọc
thành 64 chương ngũ ngôn, thất ngôn, mặc dù nội dung của khung thơ khảm xà cừ ấy
chỉ có vỏn vẹn 56 chữ.
Tính ra sự có mặt của hai bức khảm ấy
đã kéo dài từ thời Thiệu Trị (1840 – 1847) cho tới khi chấm dứt khoa cử chữ Hán
(1918) tính ra có đến hơn 70 năm tức trải qua 13 khoa thi chính thức theo thong
lệ, chưa kể các khoa đặc biệt như cát sĩ
khoa, nhã sĩ khoa, ân khoa tổ chức đột xuất, số sĩ tử đỗ đạt trong hăm mấy
khoa ấy (các hạng tiến sĩ xuất thân, đồng tiến sĩ xuất thân, phó bảng, cử nhân,
tú tài) thống kê không dưới 20 nghìn người. Trong số ấy tất có nhiều người thử tìm đọc hoặc cố khám phá
cách đọc và không rõ có ai thành công hay không chưa thấy công bố trên phương
tiện truyền thông nào. Hai bài thơ ấy có lẽ nhận được sự dửng dưng của dư luận,
chúng chỉ là thứ vật phẩm trang trí thuần túy trước sự tham quan vô tâm của
khách thập phương.
Trong tình hình đó, tôi cho rằng hai
bức khảm xa cừ nọ ít ra cũng đánh động trí tuệ của hai nhân vật khá quan trọng:
Ngô Đình Nhu và Đặng Phương Nghi.
Hai nhân vật này tốt nghiệp khoa Cổ tự học của một học viện trứ danh (Chartres)
của Giáo hội Thiên chúa. Nghe đâu học viện này có đầu vào rất khắt khe, chỉ tuyển
chọn mấy chục người còn đầu ra thật hạn chế. Thế nhưng chưa thấy hai vị ấy công
bố kết quả.
Năm 1962, dư luận mới thật sự quan
tâm về sự hiện diện của hai bài thơ nọ do một thông báo của Viện Khảo cổ Sài
Gòn trên tập san Khảo cổ số 2. Thông báo chứa nội dung kêu gọi thật tha thiết
các nhà nghiên cứu trẻ vào cuộc thay cho các vị khoa bảng đã luống tuổi, không
còn sức nhạy bén. Thời điểm ấy cả nước số cựu khoa bảng chỉ còn hai cụ tiến sĩ
( Nguyễn Huy Nhu và Nguyễn Sĩ Giác ) và cụ phó bảng Bùi Kỹ cùng các cụ cử nhân
Bùi Lương, Hà Ngại, Lương Trọng Hối, v.v… Theo một cuốn biên khảo ở Huế vào đầu
thế kỉ XXI thì bài kêu gọi của Viện Khảo cổ đã có kết quả khá tích cực, thậm
chí có cả một nhà nghiên cứu người Pháp cũng hăm hở vào cuộc và ông này đã khám
phá cách đọc của 10 chương trong tổng số 128.
Sở dĩ khá nhiều nhà nho được viện Khảo
cổ trực tiếp gửi bản in mẫu cho các cụ nghiên cứu nhưng Viện nọ không nhận được
kết quả là vì thâm tâm các cụ nghi ngờ 56 chữ lại có thể đọc thành 64 bài. Sự
nghi ngờ ấy có cơ sở từ hàng ngàn năm vì câu chuyện Chức cẩm hồi văn, tương truyền là của nàng Tô Huệ đời Hán ở Trung
Quốc dệt thành bức tranh bằng gấm dâng lên vua Hán xin cho chồng mình là Đậu
Thao kết thúc cuộc đời đi đồn thú xa xôi. Bài thơ dệt gấm tương truyền của Tô
Huệ thực chất là hàng giả viết theo thể hành,
câu cuối đại khái: Chức tương nhất
bức hiến thiên tử, Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn ( dệt nên một tấm dâng
thiên tử, xin tha chồng thiếp kịp sớm về ). Với ý nghĩa đơn sơ, cụ thể như thế
mà kẻ bịa chuyện dám ngoa truyền là bức hồi
văn ấy có thể đọc thành 200 bài theo dạng Triền cơ đồ thì với câu thơ kết thúc ấy khó thể hình dung ra những cách đọc nào được. Gần
như các nhà cựu học bị bài Chức cẩm hồi
văn ấy ám ảnh nên không thể nào thừa nhận có thể đọc những bài thơ khác đến
64 bài. Các cụ đinh ninh đấy chỉ là trò lỡm của kẻ nhiễu sự nào đó ( bằng chứng
là không lưu lại tên tác giả. Có người gọi bừa là của vua Thiệu Trị mặc dù
không hề ghi kèm “ngự chế” và đã là vua thì chả có cơ hội…mạn ngâm đêm xuân ở hội văn ).
Đọc hai bài Vũ trung sơn thủy và Phước
viên văn hội xuân dạ mạn ngâm, thâm tâm tôi linh cảm khả năng đọc như lời
ghi chú của tác giả (mỗi bài có thể theo lối Hồi văn kiêm liên hoàn đọc thành 64 chương ngũ ngôn, thất ngôn).
Trước khi quyết tâm khám phá cách đọc, tôi đem chuyện ấy hỏi cụ nghè Nguyễn Huy
Nhu nhân lúc tình cờ gặp cụ đi bộ quãng cửa Thượng Tứ. Cụ trả lời giọng hơi khó
chịu như bị làm phiền nhảm nhí:
- Người ta nhiễu sự như thế chứ làm quái
gì có chuyện đó ? Tôi thử đọc cũng chỉ được bốn bài. Ngay như bài Chức cẩm hồi văn bảo rằng đọc theo cách Triền cơ đồ thành 200 bài, thế nhưng hai
nghìn năm nay nào đã thấy ai đọc bài nào đâu ?
Tôi cũng đem thắc mắc nọ hỏi cụ Hồ Đắc
Định. Cụ Hồ là người tài hoa, tôi nghi có thể cụ hoàn thành công việc ấy từ
trước, mình vào cuộc không khéo hóa lên thừa. Thế nhưng cụ Định trả lời:
- Tôi cũng đã thử nhưng cũng chỉ đọc
được có bốn bài. Câu ấy của cụ khiến tôi nhẹ người, yên tâm vào cuộc. Bấy giờ
nhằm vào mùa Thu năm 1962, tôi giữ việc kèm trẻ tư gia, gia chủ dành riêng cho
tôi một bộ ván nhỏ trên gác xếp, rất tiện cho suy nghĩ riêng tư. Chỉ trong vài
ngày sau, tôi chợt khám phá thành công cách đọc đủ 64 chương của bài Vũ trung sơn thủy. ( Tôi sướng điên lên,
đập tay giậm chân gây huyên náo cả xóm. Vài tư gia và cả ngôi chùa trong xóm
phải thức dậy nổi chuông ngõ làm lễ cầu an đột xuất ). Tôi viết ngay cho Viện
Khảo cổ. Trong vòng một tuần tôi đã có thư phúc đáp. Người kí tên là Quyền Viện
trưởng Nghiêm Thẩm (năm 2002 tình cờ chuyện trò với cô cháu gái gọi ông bằng
chú, tôi được biết ông này bị ám sát năm 1975. Công an không truy ra thủ phạm)
- Cuối năm ấy tôi về quê ăn Tết, tình cờ gặp
một chuyện thật kì lạ, mãi đến nay tôi vẫn canh cánh bên lòng, không sao lí
giải nổi. Đấy là chuyện do anh thầy bói tên Cung tạo nên.
Anh là người làng, bên tôi quen biết
từ trước. Lúc bấy giờ anh ở trọ nhà tôi cho thuận đường làm nghề hằng ngày ở Đà Nẵng. Chiều hôm nọ về nhà thấy
tôi, anh vui vẻ hỏi:
- Nghe nói chú học giỏi lắm phải
không ? Tui thấy chú lêu bêu long bong chớ có học hành như con người ta đâu ?
Vậy mà giờ đây chú học hành ăn đứt thiên hạ hả ? Bộ dân Huế nó không chịu học
hành gì hay sao ?
- Sao lại không ? Chỉ có điều họ học
một, tui học ba. Nhưng thôi, nói chuyện về anh đi ! Anh dựa nghề của ông già (thầy
bói Cúc cả đời làm nghề bói mù) nên đi phỉnh gạt mấy mụ Thanh Khê Đà Nẵng phải
không ?
Tôi ghẹo anh quá đỗi xấc xược nhưng
có lẽ anh cố tránh đụng độ đứa hỗn xấc con bà chủ trọ nên anh vẫn nheo mắt cười
hì hì:
- Giỡn chú ! Chú không tin tui bói
trúng chóc cho coi ?
Tôi nói:
- Ừ thì bói ! Thật lòng tôi chỉ cốt đùa cợt
anh chứ không tha thiết biết trước chuyện công danh, gia sự gì.
Anh thầy bói sáng nọ cất tiếng:
- Chú bói gì ?
- Bói bài đi !
Anh giở tráp lấy ra một bộ bài tây bẩn
thỉu ghê hồn hơn bất cứ đồ nghề của thầy bói nào khác. Có lẽ không dưới vài
nghìn bàn tay đầy mồ hôi cùng cáu ghét xóc đi xóc lại bộ bài thê thảm ấy. Thông
thường thì thầy bói lẫn người coi bói đều vận dụng lòng thành tối đa mới mong
được quẻ bói ứng nghiệm. Thế mà tôi lấc cấc thấy rõ, còn anh khăng khăng tự tin
là bói trúng cho kẻ không cần niềm tin thì quả là chuyện chẳng hề có tiền lệ.
Tôi từng đã có thời hơi tin tin môn bói bài.
Đã mua sách dạy nghề, lại còn thử bói cho vài người bạn, nhưng chẳng đâu vào
đâu. Bộ bài của tôi chưa dùng quá mươi lần. Còn giờ đây nhìn thấy bộ bài của
anh, máu lấc cấc của tôi càng tăng thêm, thử coi anh ta diễn được trò vè gì.
Tôi làm theo lời chỉ bảo của anh: xào bài, xốc
bài rồi chọn bài những lá anh chỉ định.
Anh trang bài thành mấy hàng rồi phán:
- Quẻ này cho biết rằng chú có mối lợi lớn
nhưng giờ đây mối lợi ấy đã bị người ta đoạt rồi !
Tôi cười ngất, cất giọng mỉa mai:
- Thầy đoán trật lất rồi thầy ơi! Tui đi học
chớ có phải đi buôn đi bán gì đâu mà có lợi ? Thôi ! Anh thử bói năm nay tui
đậu mấy cái đi !
Anh thầy bói sáng nọ đăm chiêu vài
giây, đăm đăm ngắm các lá bài rồi phán như đinh đóng cột:
- Chú chỉ đậu có hai cái. Còn một cái… bạn
chú làm cho chú không đậu.
Lời phán này nghe càng chướng tai hơn.
Tôi càng bất phục, gân cổ cãi :
- Ở Đại học tụi tui ngồi thi lẫn lộn,
đứa nào lo phần đứa nấy, bài thi có giống nhau đâu mà có thể đứa này quấy rối
đứa khác ?
Nói chung tôi coi cuộc chuyện trò với
anh thầy bói tên Cung ấy chỉ là cuộc trò chuyện bông phèng vô bổ giữa khách trọ
với chủ nhà. Xong cuộc chế giễu, đùa cợt ngạo mạn ấy, tôi chẳng nghĩ gì về anh
nữa. Ăn Tết xong tôi quay ra nhà trọ. Vừa mở khóa phòng trọ, va li mới đặt ở bệ
cửa thì Tống Phước Hải, người bạn trọ phòng bên reo lên:
- “Cha” ra
sớm quá hả ! “Cha” có biết “thằng” giáo sư Dương Đình Khuê không ? Anh ta là
vậy. Người trước mặt anh mới được gọi bằng cha, mọi người khác đều bị gọi bằng
thầy, chỉ có một số ít người được coi là ngoại lệ. Giọng anh rổn rản:
- Bài thơ cổ thời Thiệu Trị phải đọc
thành 64 chương mà nó đọc cũng được ! Tài quá là tài !
Tôi giật mình rồi ngẫm nghĩ:
- Tại sao có chuyện lạ vậy nhỉ ? Rồi
tôi ngẫm nghĩ một mình: “ Có lẽ người ta cũng gặp may như mình ”. Tôi sực thấy
mình sơ hở tày trời ! Tôi vội ngồi vào bàn viết ngay cho Viện Khảo cổ xin bổ
sung một điều là ghi ở cuối công trình của mình là tháng 9 năm 1962 ( Năm năm
sau đấy tôi mới biết thư ấy vào tay ai ).
Người bạn cùng trọ đưa cho tôi một
tờ nội san của Nha Cảnh sát. Tôi hơi lạ là một công trình nghiên cứu như thế
sao lại đăng ở nội san Cảnh sát ? Có lẽ giáo sư Dương Đình Khuê là một nhân vật
tầm cỡ nào đó của Nha nọ ?
Đầu năm mới, một hôm học giờ Hán văn
của cụ Nhu ở lớp Dự bị Văn khoa , cụ hỏi bâng quơ:
- Có anh nào biết Phạm Liễu hay
không? Nghe nói anh ta đọc được hai bài thơ bí hiểm ấy rồi hả ?
- Thưa cụ. Anh ta về ăn Tết chưa ra
ạ ! Tôi đáp lời cụ Nhu mà cảm thấy lưỡi mình đắng nghét như bao nhiêu vị đắng
của đời cô đặc lại. Cảm giác tồi tệ ấy xảy ra chỉ vì Liễu vốn là bạn thân của
tôi từ nhiều năm qua, bạn bè đều biết rõ. Lẽ ra anh đừng xóa đi mấy năm trời
học nhóm cùng nhau trên gác Di Luân Đường ! ( Anh qua đời hơn ba mươi năm rồi
tôi mới thông cảm thật sự với thủ đoạn ấy của anh ). Tôi không ngờ gặp chuyện đểu như vậy, nhưng
nghĩ kĩ chung quy chỉ tại mình hớ hênh ngờ nghệch. Nhiều năm sau nghĩ lại
chuyện ấy tôi mới thấy thông cảm thực sự với thủ đoạn ngày ấy của anh ta. Cụ
Nhu hỏi bâng quơ như vậy chứng tỏ là cụ chưa diện kiến trực tiếp anh ta. Có lẽ
cụ chỉ nghe cô gái rượu của cụ kể lại. Cô này là nữ sinh nhan sắc trên trung
bình của trường Đồng Khánh và có hàng tá sinh viên Huế trồng cây si. Có lẽ Phạm
Liễu là cây si cổ thụ nhất và quyết tâm nhất nhưng ít hy vọng nhất tuy bản lĩnh
dạn dĩ có thừa. Rất có thể anh ta mượn chuyện ấy để tăng cân lượng cho cuộc đối
đầu cạnh tranh tuy thành quả chả đâu vào đâu.
Năm 1963 ấy, cố đô Huế rung chuyển vì biểu
tình, tuyệt thực, tự thiêu xảy ra liên tục. Đứng trên lầu của phòng thi Văn
khoa, nhìn xuống đường phố thấy nhà sư T.Q đứng kề viên đại biểu Chính phủ
Trung Phần NVĐ trên chiếc xe mui trần,
cả hai mồ hôi nhễ nhại dưới cái nắng hè nghiệt ngã xứ Huế trông thật bi đát. Cả
hai lại còn phải ra rả đích thân lặp đi lặp lại các lời trấn an dân chúng phố
xá liên tục. Ở chân cầu Tràng Tiền một đám sinh viên tuyệt thực uể oải ngồi xơ
rơ, suy nhược lộ rõ. Chứng kiến thảm cảnh ấy, tôi nghĩ đeo đuổi việc thi cử của
mình là chuyện có hơi lố bịch nhưng thâm tâm chủ trương nước đôi: không ôn tập
gì, chỉ lang thang phố xá quan sát, tìm hiểu thông tin thời sự, còn các cuộc
thi nếu có tổ chức thì cũng tham gia, được chăng hay chớ. Kết quả là lần thi
ấy, tôi bỏ cuộc ngay lúc vừa nhận đề do thấy đầu óc trống rỗng không làm bài
nổi. Thế nhưng do quyết định quá nhanh nên lúc tôi rời phòng thi có nhiều cặp
mắt khâm phục dõi theo. Cùng bỏ thi tức thì như tôi có một thí sinh khác là Nguyễn
Mộng Giác ( nhà văn lớn về sau ). Chính anh ta thực sự quyết tâm còn tôi chỉ là
kẻ lừng khừng nửa nạc nửa mỡ. Giác giữ tôi lại trao đổi đôi chút chuyện thời sự
vì mấy hôm trước, anh biết tôi là kẻ đầu têu cự tuyệt kí vào bản kiến nghị ủng
hộ đường lối, chủ trương của nhà nước. Cuối giờ thi hôm ấy, Trần Văn Du từ trên
lầu băng xuống, xăm xăm sà đến chỗ tôi:
- Mi khinh tau lắm hả Lại ? Đây là
chứng chỉ cuối cùng của bằng cử nhân Triết, tau không đành hi sinh một năm học nên
phải muối mặt xấu hổ với mi.
Tôi an ủi thật lòng bằng lời lẽ cố hết
sức mềm mỏng:
- Cậu đừng nói quá lời như thế, oan
cho mình lắm. Mình không khinh gì cậu
đâu. Mình bỏ cuộc là đầu hàng vô điều kiện do mấy tháng nay chỉ long bong theo
dõi tin tức thời sự chứ có đầu óc đâu ngó ngàng gì đến bài vở. Du nhìn trân vào
mắt tôi tỏ vẻ không tin. Trong lúc miệng tôi nói thế nhưng đột nhiên trí tôi
lại lóe lên lời phán của anh thầy bói Cung… “ Chú chỉ đỗ hai cái, cái thứ ba bị
bạn chú làm cản trở ” … Tôi có vắt óc nghĩ bảy ngày cũng chả đời nào đoán ra
kiểu cản trở lạ lùng tinh tế mà quẻ bói trời ơi nọ biểu hiện !
Mấy ngày sau tôi nhận được lá thư thứ
hai của Viện Khảo cổ. Cũng vẫn thư đánh máy kiểu chữ Triumphe trông thật trang
trọng trên giấy lụa sờ mát cả tay. Trước kia và sau này tôi chưa có dịp gặp thư từ công
văn nhà nước chơi sang như thế. Thư vẫn kí tên Q. Viện trưởng Nghiêm Thẩm. Nội
dung đại khái: Viện chúng tôi không chủ trương thủ đắc bản quyền, thành thử ông
có toàn quyền đưa công trình nghiên cứu của mình đăng ở tạp chí khác.
Tôi không biết xử sự ra sao nên đem tư
vấn thầy Phan Văn Dật, đang dạy tôi ở Viện Hán Học Huế. Thầy bảo: “ Anh mới bắt
đầu viết, không nên làm thế mà bất liêm ”. Nhiều năm sau tôi mới hiểu thâm ý
của lời khuyên ấy ở lá thư của Viện nọ. Người ta cố tình ngọt nhạt như vậy chỉ
cốt đánh lừa cho tôi đăng bài mình lên tạp chí nào đó rồi chỉ việc trích dẫn
khơi khơi, tôi không có quyền đòi hỏi nhuận bút như lời hứa ở bức thư thứ nhất:“
Hội đồng Viện chúng tôi đã họp bàn và đồng ý trả ông nhuận bút đặc biệt mỗi
trang 500 đồng. Lâu nay chúng tôi chỉ thanh toán thù lao hạng A 150 đồng, hạng
B 50 đồng, còn hạng tin tức thông thường chỉ 30 đồng. Với chủ trương “không thủ đắc bản quyền ” ấy có lẽ thầy
Dật bấy giờ cũng chưa mảy may nghĩ tới thủ đoạn tinh vi ấy. Cũng trong lá thư
thứ nhất ấy, hội đồng Viện Khảo cổ cho biết rằng số bài vở năm 1963 đã được
thông qua nên công trình của tôi phải chờ đăng ở số thứ tư tức vào năm 1964.
Thế nhưng năm 1964 ấy tôi không tìm
được Khảo cổ tập san ở các cửa hàng sách. Năm 1965 tôi tốt nghiệp sư phạm, vào
nhận việc ở Nha Trang, tôi mới thấy Viện Khảo cổ phát hành số kép nhưng không
công bố công trình của tôi như lời hứa tha thiết ở lá thư gửi tôi hồi cuối năm
1962. Vài năm sau, vào một ngày nọ, tôi tình cờ nhìn thấy một khung cáo phó về
sự từ trần của giáo sư Dương Đình Khuê, Chủ sự Phòng Hành chánh Viện Khảo cổ.
Tôi đứng chôn chân như hóa đá trước quầy báo. Chung quanh chẳng có bạn bè để tâm
sự cho dịu ấm ức. Thật ra năm ấy tôi dạy học kín mít thời khóa biểu. Họa hoằn
lắm, cả tháng trời tôi mới sà lại quầy báo không quá ba lần mà mỗi lần cũng chỉ
năm ba phút là cùng ! Thế mà trời xui đất khiến làm sao tôi lại nhìn thấy rành
rành cái cáo phó đặc biệt nọ để thấu rõ ngọn ngành: Dương Đình Khuê đăng bài nọ
trên tập san Bạn Dân của Tổng nha Cảnh sát số xuân 1963 chỉ cốt hù dọa cho tôi
ớn khỏi dò la nhiễu sự còn địa vị chính
thức của ông là trưởng phòng Hành chánh Viện Khảo cổ tức bộ phận phụ trách việc
ấn hành tập san Khảo cổ hằng năm ! Sau vụ ém bài báo tôi gởi, giáo sư DĐK chủ
sự phòng Hành chánh chỉ tồn tại thêm ba năm nữa rồi thất lộc, chưa kịp về hưu
theo thông lệ ! Đến nay chuyện ứng nghiệm của anh thầy bói Cung thật trọn vẹn.
Hơn bốn chục trang tôi viết mỏi tay và được hứa hẹn niềm nở có thể nhận hơn ba
cây vàng theo thời giá bấy giờ nhưng rốt cuộc thành chuyện đầu voi đuôi chuột…
nhắt ! Những điều anh thầy bói Cung phán nghe chắc cứng, nhưng bấy giờ lời lẽ
ấy của anh chỉ lọt tai tôi không chút phần trăm nào ! Tôi hối hận thái độ láo
lếu quá đáng của mình, từ đó tôi không còn cơ hội gặp lại anh ta và cứ tự hỏi
mãi có cái gì trong mấy lá bài bẩn thỉu ấy lại cung cấp cho anh lượng thông tin
linh diệu đến vậy. Cái kiểu chính xác tận nanomet như thế khiến tôi cảm thấy ấm
ức. Lẽ nào số mệnh lại sinh sự quá đáng đến thế hay sao.
Bẵng đi hơn hai mươi năm tình cờ tôi cộng tác
với tạp chí nọ ở Đà Nẵng vào dịp cuối năm, một biên tập viên gạ tôi:
- Chú viết bài báo Tết đi ! Báo Tết
cần nhiều bài lắm ! Tôi sựt nhớ hai bài thơ nọ nên hỏi lại anh có đủ chỗ đăng
không. Anh sốt sắng nhận. Cùng năm ấy tôi gởi một bản sao cho tạp chí Kiến Thức
Ngày Nay. Tôi hí hửng thầm mong có lẽ tới hồi trúng mánh. Không ngờ xôi hỏng
bỏng không, bản thảo ở KTNN chẳng rõ theo đường nào lại trôi qua báo Xuân Thanh
niên, không rõ “tác giả” nào xử lí kiểu ấy, còn bài gởi ở báo nọ ở Đà Nẵng thì
chín tháng sau đã được xuất hiện nguyên cuốn hoàn chỉnh của nhà nghiên cứu
Nguyễn Tân Phong. Tôi cố công dò hỏi thì được biết anh này là người gợi ý tôi
gởi bài báo Xuân nọ, rồi sau đó ảnh cũng giã từ Tòa soạn kiếm một chân ổn định
ở Ban Bảo tàng Di sản Cố đô Huế. Tôi có người bạn làm việc nhiều năm ở đấy nên
gởi thư đề nghị anh ta xác nhận nhân vật nọ có phục vụ ở cơ quan nọ hay không nhưng không thấy trả lời. Mấy năm sau ấy, có
tin hay anh ta qua đời. Điều tôi buồn nhất là nghe đâu anh chàng nọ từng có
thân phận nhà sư trong quá khứ. Tin này tôi không có dịp kiểm tra.
Như vậy việc đề xướng khám phá bí
hiểm của hai bài thơ ấy có kết quả cuối năm 1962 do một chàng sinh viên năm thứ
ba khóa I của Viện Hán Học Huế nhưng người sử dụng là Dương Đình Khuê vào năm
1963 rồi bẵng đi ngót hai chục năm sau chuyện ấy tái hiện ở báo Thanh niên và sách
của ông Nguyễn Tân Phong cùng xảy ra một năm trùng lần gửi bài của tôi trong
khi hơn hai mươi năm đằng đẵng im hơi lặng tiếng không có ai đá động tới !
Lại bẵng đi một thời gian nữa, Đằng
Ngoài lại xuất hiện công trình của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn ( nay đã quá cố ).
Tôi không hay biết gì về công trình trễ nãi ngót 40 năm của ông nhưng nghe dư
luận đồn đãi thì công trình ấy đồ sộ hơn, danh giá hơn những gì anh sinh viên
Hán Học Huế đã thực hiện hồi cuối năm 1962. Tuy nhiên việc đọ ấy để lộ ra những
chỗ phi lí:
Bài thơ bí hiểm đã qui định đọc thành
64 chương. Người ta đã đọc đúng số ấy rồi thì làm thế nào xáo trộn thứ tự và thêm
bớt số lượng các chương khác với số lượng tác giả đã quy định?
Những chương do Dương Đình Khuê,
Nguyễn Tân Phong và kết quả ở báo Thanh niên, cả ba đầu mối ấy cùng trùng hợp
với kết quả đầu tiên của Trọng Lai gởi cho Khảo cổ tập san năm 1962. Bất kể
trong bao nhiêu năm nữa, với bao nhiêu người “tiếp tục” khám phá nữa thì chuyện
quy định số chương đọc cũng chỉ có thế. Việc so đọ nhà nghiên cứu Đằng Trong
với Đằng Ngoài, có thể mượn lời Mạnh Tử ( 372 – 289 tr.CN. ) “ Bỉ hà nhân dã,
ngô hà nhân dã, ngô hà úy bỉ tai !” ( Gã là người nào, ta là người nào, ta nào
sợ gì gã chứ !)
Tôi lại phải kể một chuyện bên lề,
nếu không thì tiếc lắm. Chuyện xảy ra năm 2002 với một nhà ngoại cảm ở Đà Nẵng
tên là cô Chi. Lần tìm mộ liệt sĩ thứ tư, có người khuyên tôi tìm cô. Trông cô
thanh lịch, khó ai nghĩ rằng cô là công nhân một nhà máy nọ trong nhiều năm
trời. Thoạt nhìn tôi cô bảo:
-
Anh
có tin tưởng gì tôi đâu mà phải coi ?
Tôi hơi khó chịu không biết mặt mũi
mình ra sao lại lộ ra dấu vết ấy để cho người ta bắt quả tang. Giọng tôi xẵng
một chút:
- Tôi lặn lội đến đây ngót mười cây
số sao cô nghi vậy ? Cô lặng thinh tiến hành công việc tôi yêu cầu. Đặc biệt cô
mô tả diện mạo thời còn sống hồi bốn mươi năm trước của anh tôi. Tôi phục lăn,
đặc biệt là mô tả vị trí anh tôi nằm. Cô ái ngại:
Ngót bốn mươi năm rồi, chả còn gì
đâu để tìm. Huống chi đấy là lòng suối, giờ là con đập, may lắm chỉ còn vài sợi
tóc và mấy đốt xương ngón chân…
Nhìn vẻ mặt thất vọng của tôi, cô
thương hại :
- Chuyện liệt sĩ là vậy, anh có coi
chuyện của anh không ?
Tôi đâu cần phải coi gì ? Chỉ coi
bao lâu nữa ra nghĩa trang thôi !
Đã buồn câu nói thêm buồn. Cô nhoẽn
một nụ cười thật tươi rồi bảo :
- Anh có cái đặc biệt để coi đấy !
- Thật vậy sao ?
- Thứ nhất, nhìn diện mạo anh không
ai ngờ đã thoát hai lần chết đói ! ( quái quỷ ! Tấm thân 72 kí hơi mà lại trông
có vẻ suy dinh dưỡng đến thế !). Thứ hai, anh có đồng nào khá khá thì có người
nghĩ cách tiêu hộ anh ngay ! Tôi giật thót như nhận một cú nock out, choáng
váng cả mấy giây. Té ra Dương Đình Khuê, Nghiêm Thẩm…toàn là những người hiền
khô đầy thiện ý không hề làm hại gì tôi
cả. Chính cái lẽ thứ hai của nhà Cảm xạ học vừa nêu đã tiến hành những trò ma
mãnh ấy ! Thế mà trong quá khứ, tôi lại còn tham gia nhiều cuộc hùn hạp, làm ăn
này nọ lại không nhận được lời cảnh báo như thế lần nào!
Đà Nẵng 2015
No comments:
Post a Comment