Chỉ Riêng
Mình Người Hiểu
Chiều
thứ sáu, Ngữ đến trường Văn Học, dạy hai giờ toán cho lớp Đệ Nhị, cái
công việc mà anh đã nhận từ hơn bốn tháng qua, sau ngày được anh Đăng giới thiệu
cho ông hiệu trưởng. Anh Đăng, dạy ở đây lâu lắm rồi, anh tốt nghiệp đại học Sư
phạm, dạy toán rất giỏi, bị động viên vào lính, bị thương ở trận Bình Giã, giải
ngủ với cấp bậc Đại úy. Anh là người con lớn của bà dì năm bên ngoại, Ngữ gặp
anh đôi ba lần, khi về Gò Dầu ăn giỗ ngoại, nhưng không có dịp nói chuyện nhiều,
vì những ngày tháng đó, Ngữ còn là thằng em nhỏ nhất, trong mắt của bà con bên
ngoại. Sau khi dạy xong, Ngữ không bỏ về như thường ngày mà nấn ná tán dóc với
đám học trò trong sân. Ngoài đường, chiều chưa xuống hẳn, nắng tuy muộn nhưng vẫn
còn sáng. Đường phố không lúc nào vắng người, tiếng cổng xe lửa, trên khúc đường Lê Văn Duyệt, từ từ
khép nặng chình chịch chận ngang. Ở phía trên xa, có tiếng còi chuyến xe từ
ngoài miền Trung về, con nít nhà ở hai bên đường rầy, ùa chạy ra đứng chờ, gọi
nhau ơi ới.
Ra khỏi cổng trường,
Chiêu ngồi trên xe Honda chờ Ngữ ngay bờ tường, chắc có chuyện gì lạ, vì thường
ngày ít khi nào cô đến tìm Ngữ ở đây chiều thứ sáu, Chiêu làm dấu cho Ngữ lái
xe đi mà không nói gì cả. Đến công trường Duy Tân, vào một quán kem nhỏ ngó qua
bên kia trường Luật, hai đứa chọn cái bàn vắng trong góc, Chiêu nhìn Ngữ, nhưng
chưa nói lời gì, nhưng nét mặt xem ra có cái gì đó chừng như quan trọng lắm. Phố
xá chưa lên đèn, trời dịu mát dần, lưa thưa bên sân trường Luật, vài ba cô ở lại
muộn, tụm hai tụm ba cười nói. Chiêu mở xách tay, đưa cho Ngữ lá thư gì đó, bảo
anh đọc đi rồi sẽ nói chuyện. Ngữ mĩm cười, đọc thư, lại thêm một lá thư nữa của
Tường gởi cho Chiêu từ Đà Lạt, trong thư lần này, ngoài những câu thăm hỏi nhớ
nhung thông thường, Tường mở lời xin cưới Chiêu, sau khi anh ta tốt nghiệp trường
Sĩ quan Đà Lạt, bảo Chiêu hãy trả lời sớm để anh còn lo liệu.
Cũng trong thư, Tường
cho biết, khóa anh có thể ra trường sớm hơn những khóa trước vì nhu cầu chiến
trường, đang cần có thêm cấp chỉ huy. Quân Bắc cộng, càng lúc càng xâm nhập vào
Nam nhiều hơn và đã tung ra các trận đánh lớn trong vài tháng gần đây. Bạn bè lại
có thêm đôi ba thằng tử trận, bỏ đời ra đi một cách tình cờ. Tiếng súng tiếng
bom, hình như sát lại gần thành phố hơn trước đây nhưng người ta vẫn sống, dù sống
vội vã hay sống chán chường. Con đường trần gian mà ông Trời vạch sẳn ra vẫn có
người đi người về, đi bao lâu rồi cũng phải về, sớm hay muộn. Ngữ bỏ lá thư xuống
bàn, ly nước còn đầy, chưa đứa nào đụng tới, cả hai người nhìn nhau, không biết
phải bắt đầu câu chuyện như thế nào đây. Chuyện của Tường, thật ra, cứ lẩn quẩn
trong đầu Ngữ cũng như Chiêu từ bao lâu rồi. Ngữ nhìn mông lung ra đường, đèn
trên đường vừa lên, vệt nắng cuối ngày đã tắt ở phía bên kia phố. Một lần nữa
Sài Gòn vào đêm. Vì là chuyện cũ nên hai đứa chẳng cần phải nói gì, Chiêu bưng
ly nước lên uống một hơi, chút nước đá lạnh của ly sinh tố làm Chiêu chợt tỉnh,
Chiêu mĩm cười, giục Ngữ ăn ly kem kẻo kem chảy tan theo sức nóng cuối ngày.
Hai người đồng ý, với
nội dung lá thư mà Chiêu sẽ viết trả lời cho Tường nay mai trên đường Chiêu đưa
Ngữ về nhà. Chiêu sẽ cám ơn, tình cảm mà Tường đã dành cho, xin Tường cho Chiêu
có thời gian suy nghĩ và dịp tốt nhất, là sau khi ra trường, chừng một năm mấy
nữa, khuyên anh ta yên tâm học hành. Tùng đứng thơ thẩn trước nhà, cười toe
toét chào, Ngữ thong thả xuống xe, Chiêu vẫy tay, rồi lái xe bỏ đi. Tùng nấn
ná, chờ Ngữ chưa chịu ăn cơm, nhà đối diện lại bắt đầu có tiếng con nít ồn ào,
giành nhau chỗ ngồi trước sân, chờ coi chương trình truyền hình buổi tối.
Ngữ lặng lẽ về Tây
Ninh sáng thứ bảy mà không nói với ai tiếng nào, cả Tùng cũng không biết Ngữ đi
đâu khi Chiêu và Thảo Ly qua tìm. Lời Tường viết trong thư cứ vướng mắc đâu đó
trong đầu. Cái buồn nao nao làm Ngữ chợt dưng nhớ nhà, nhớ Bến Cầu ray rứt, nhớ
đôi mái đầu bạc của ba mẹ như bông bưởi sau nhà, nhớ chiếc xuồng ba lá của anh
chị Thương, nằm nhấp nhô, lẻ loi, cuối bờ mương ra con rạch nhỏ, nhớ tiếng mưa
rớt từng giọt dài trên mái căn nhà chòi tranh chất củi, ở đó, có lửa bập bùng
nướng khoai lang trong những ngày đầu đông, nhớ tiếng ễnh ương khi mất khi còn,
theo ánh lửa đèn câu lập lờ ngoài ruộng. Một chút nhớ đó, cũng đủ làm Ngữ phải
về Bến Cầu, về để nhớ để thương và cũng về, để trốn cái nghiệt ngã sầu, mà Tường
vô tình quấy đọng trong lá thư vô tình vô tội.
Tới Cẫm Giang, thì
tàu đò lớn cũng vừa qua tới, cho nên Ngữ về Bến Cầu, trời mới quá xế trưa. Chị
năm Thương, đi đâu đó từ phía bên kia sông, về ngang bến tàu, thấy Ngữ la ơi ới.
Chị chẳng màng hỏi tiếng nào, cười một cái rồi bỏ đi trước, chị đi thật lẹ mà
không cần ngoái lại xem Ngữ ra sao, Ngữ nhìn theo bóng chị cười một mình. Nắng
từ từ dịu đi, bên kia sông lớn, trời xem ra có vẻ sắp nổi giông, mây từng cụm
đen kéo về hướng chợ. Chị năm đứng kế bên ba mẹ Ngữ ngoài sân trước cười khúc
khích, Ngữ đi nhanh vào nhà, ai nấy đều ngạc nhiên, không ngờ Ngữ lại về bất chợt
như vầy. Chị năm lo cơm nước sớm, cả nhà Ngữ cùng gia đình chị quây quầng dưới
mái hiên sau, mùi cá lìm kìm kho xả ớt thơm không thể tả.
Cơm nước xong, trời
cũng vừa đổ mưa, Ngữ cùng anh em thằng Thiết thằng Tha, con của anh chị năm
Thương, bắt ghế ngồi trước hàng ba, nhìn trời tán dóc, vài anh lính Nghĩa quân
quen, từ hướng văn phòng xã đi ngang, vẫy tay chào. Lẻ loi, tiếng ễnh ương còn
kêu ngoài đám ruộng gần truông, trời mưa lưa thưa, không nặng giọt. Hai ba căn
nhà phía bên kia đường đã lên đèn.Có tiếng đại bác vọng về từ một hướng nào xa
xa, bọn Ngữ vẫn còn ngồi đó, trong bóng đêm vừa xuống qua mái hiên. Mẹ Ngữ và
chị năm Thương lục đục gì đó trong bếp. Anh năm từ bên nhà, cầm cây đèn dầu nhỏ,
băng qua sân, nói khẻ với bọn Ngữ “chút xíu mình có chè đậu xanh ăn rồi”. Ngữ
thức, nói chuyện với ba mẹ tới giữa khuya, đêm nay không có tiếng súng.
Sáng sớm, Ngữ theo Thiết đi bằng xe Honda, qua ngã
Trà Cao, cho nên tới chợ Gò Dầu còn sớm. Hai
người vào uống cà phê trong một cái quán hủ tiếu nhỏ, ngay ngã ba, ngó
qua văn phòng Chi khu quận. Trời sáng dần, bến xe Sài Gòn, nằm kế sát bên hàng
rào chi khu, vẫn chưa có mấy người đi. Gió từ phía sông thổi lên, lành lạnh và
thơm mùi lục bình pha hương mạ mới cấy. Thiết từ giã Ngữ rồi lái xe xuống chợ
quận. Chuyến xe đầu ngày Gò Dầu – Sài Gòn vừa rục rịch mở máy, khách chưa có
ai, nên Ngữ tìm chỗ ngồi cho vừa ý mình không khó lắm. Nắng lên thật nhanh từ
hướng bên kia sông, sáng rực mấy nhịp cầu xi măng, chia đôi phố chợ một màu vôi
trăng trắng. Ở một phía nào đó cuối đường, có tiếng chuông chùa Thạnh Lâm thong
thả đổ.
No comments:
Post a Comment