Biên Hòa: Không Lời
Từ Biệt
(Như một nén hương cho anh em BH.đã nằm xuống)
Ngày 28 tháng Tư năm 2015,
đúng 40 năm ngày Biên Hòa hấp hối. Bộ chỉ
Huy SĐ3KQ tạm thời đặt tại Không Đoàn ( KĐ) Yểm Cứ, gần cổng 1 Biên Hòa, vì Bộ
Tư Lệnh SĐ bị pháo kích, có nội tuyến điều chỉnh rất chính xác. Tôi vô tình là
một trong 3 người được nghe quyết định cho số phận Biên Hòa
của Tr/Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân (TLKQ). Hai người kia là Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính,
Sư đoàn Trưởng SĐ3KQ và Chuẩn Tướng Từ Văn Bê, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Kỷ Thuật
Tiếp Vận (BCHKTTV). Mấy năm nay, tôi cứ lưỡng lự mãi vì đây là một câu chuyện
buồn. Tự biết tôi không đủ khả năng diễn tả hết cảnh tang thương, oan nghiệt nầy,
nên đành bỏ ý định viết… Giờ đây ba tướng đã quy thiên, bản thân tôi cũng không
biết trước lúc nào. Tôi mạnh dạng viết, ít nhứt để ba đứa con tôi biết thêm phần
nào nơi chúng đã sống êm đềm trong những
ngày thơ ấu. Và cũng xin gửi đến những người bạn đã một thời từng chết sống, gắn
bó với Biên Hòa, một khung trời kỷ niệm.
“Nhà
Bè nước chảy chia hai
Ai
về Gia Định Đồng Nai thì về.”
Lúc tôi đang
làm Sĩ Quan Liên Lạc tại Fort Wolters, Mineral Wells, Texas năm 1970, Thiếu tá
Trưởng Phòng Liên Lạc muốn tôi về làm Phi Đoàn Phó (PĐP) PĐ Chinook tân lập do
ông làm PĐT tại Biên Hòa. Vì biết nhau từ
lúc còn bay chung ở PĐ213 tại Đà Nẳng nên tôi quyết định về Đồng Nai với ông.
Phi Đoàn 237 Chinook thành lập ngày 30 tháng 9 năm 1970 tại Biên Hòa. Tuy nhiên PĐ vẫn còn bay chuyển
tiếp hành quân chung với Đại Đội 225 Chinook của Mỹ tại Căn cứ Phú Lợi, tỉnh Bình Dương. Sau khi học xong khóa chuyển tiếp Chinook tại Fort Rucker, Ala, tôi về Phi Đoàn
cuối tháng 12 năm 1970, vẫn lên xuống
Saigon- Phú Lợi để bay với anh em. Đây
là lần thứ hai tôi ở Biên Hòa. Lần đầu, tháng 5 năm 1969 tôi học chuyển tiếp
UH-IH với Phi Đoàn Spartan của Mỹ một tháng. Trong thời gian nầy, tôi chịu đại
tang, người mẹ yêu thương của tôi qua đời đột ngột tại Thị Xã Long Xuyên. Trước
đó một tuần, tôi theo trực thăng về thăm cha mẹ. Bữa cơm vui vẻ với ba má và
hai đứa cháu gái đang ở đây học. Trông rất khỏe, đâu ngờ mẹ tôi ra đi vội quá,
mới trên 71 tuổi. Là con út nên bao nhiêu tình thương của mẹ dồn hết cho tôi
làm tôi hụt hẫng như mất hồn. Và lần nầy
tôi trở lại Biên Hòa cho đến ngày mất nước.
Sơ lược vài dòng lịch sử về Biên Hòa. Cuối thế kỷ 17, Biên Hòa nói riêng,
miền Nam, nói chung, chưa phải là đất của Việt Nam mà là của nước Chân Lạp. Năm
1679, sau khi nhà Thanh lật đổ nhà Minh, lập nhà Mãn Thanh bên Trung Hoa, Tướng
nhà Minh là Trần Thượng Xuyên, Tổng Binh, cùng chủ tướng là Dương Ngạn Địch đem
50 chiến thuyền cùng 3.000 quân xuống Miền Nam xin thần phục Chúa Nguyễn
của Việt Nam. Chúa Nguyễn Phúc Tần chấp thuận và thương lượng với Phó Vương
Chân Lạp là Ang Nan cho hai tướng vào khai khẩn sinh sống. Tướng Dương Ngạn Địch
dẫn quân vào Mỹ Tho còn tướng Trần Thượng Xuyên vào Bàn Lân, Biên Hòa ngày nay,
lập nghiệp. Đến năm 1699, nước ta có sự bất hòa với Chân Lạp, Chúa Nguyễn sai
tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam cùng Trần Thượng Xuyên đánh với Chân Lạp. Quân ta
toàn thắng và năm 1700 sát nhập các vùng
Biên Hòa, Gia Định, Vĩnh Long và An Giang vào nước ta. Đây là bài học mà chính
quyền Cộng Sản Việt Nam phải học thuộc lòng: Cho nước láng giềng mượn đất khai
thác, rồi gây sự, đánh chiếm lấy luôn. Lúc
nầy Biên Hòa còn hoang du không người ở. Nhờ công của Tướng Trần Thượng Xuyên
khai quan mà trở nên trù phú ngày nay (tham khảo tiểu sử Tổng Binh Trần thượng
Xuyên).
Khi về đây, bạn bè tôi ai cũng lưu ý
tôi về màu đỏ, vì màu đỏ chỉ có ông Thần Trần Thượng Xuyên độc tôn mà thôi. Đứa
nào không tin, dùng xe màu đỏ thì y như rằng sẽ đi đoong ngay. Điều nầy tôi
không tin đến khi ứng nghiệm cho nhân viên PĐ của tôi. PĐ thiệt hại nặng sau mùa “Hè Bình Long Anh
Dũng,” nhưng bù lại đựợc tuyên dương công trạng
và được nhận đỡ đầu, đồng thời nhận đươc tiền thưởng bay phi diễn hạng
nhứt đồng hạng Ngày Quân Lực 19/6/1973 (6 chiếc Chinook thường thấy trong vài
DVD hải ngoại). Vì vậy, tôi có ý định tổ chức sinh nhựt PĐ 3 tuổi. Vì chiến tranh nên không tổ chức năm
1972. Một hôm Th/úy Nguyễn Hiền của PĐ mời
tôi qua quán cafê của chú ở khu gia binh. Nói quán cho ra vẻ, thực ra đây là một
barrack cũ, gia đình ở 1/3 còn 2/3 mở quán kiếm thêm tiền chợ. Tôi do dự, vì thỉnh thoảng tôi cũng xuống uống
ủng hộ gà nhà. Lần nầy khi vào tôi rất ngạc nhiên, một màu đỏ hiện ra: tất cả tấm
trải bàn và màn cửa sổ đều màu đỏ. Vì
không tin nên tôi không có ý kiến việc làm ăn của nhân viên. Hiền bảo, nếu tôi tổ chức sinh nhựt PĐ, chú
xin đóng góp phần rượu. Tôi dọa, tổ chức
cho 4-5 trăm người, tiền rượu ít nhứt cũng phải trên trăm ngàn. Chú bảo chú đủ khả năng. Tôi cám ơn và giải
thích: Tiền rượu do đơn vị đỡ đầu hứa đài thọ. Hơn nữa các đơn vị bạn trong
Vùng 3 mỗi người vài chai cũng uống mệt nghĩ. Phần ban nhạc do tiểu đoàn Chiến
Tranh Chính Trị (CTCT) Quân Đoàn 3 đảm trách. Ca sĩ toàn gạo cội như Anh Khoa,
Ban tam ca Sao Băng, kịch có Tú Trinh, La Thoại Tân v.v. . và vũ đoàn Maxim, do
Tổng Cục CTCT quân đội giúp free. Nghe
nói ca sĩ Ngọc Minh, Sơn Ca do anh em trẻ PĐ mời được nữa. PĐ chỉ lo thức ăn nhẹ
là đủ, không tốn kém bao nhiêu. Mùa hè năm 1973 hai cô em vợ của Hiền nghỉ học,
lên giúp chạy bàn và thu tiền nên quán càng đông khách. Trong thời gian nầy,
ban đêm phi trường Biên Hòa cũng bình yên, ít bị pháo kích. Lý do địch cũng sợ
bị trả đủa: nhẹ thì cho mấy chiếc trực thăng võ trang lên diệt ngay, nặng thì
sáng hôm sau mấy chục chiếc A-37 từ Cần Thơ và F-5 Biên Hòa lên Lộc Ninh rải thảm bom xả láng.
(Lộc Ninh là một quận lỵ của tỉnh Bình Long giáp Cambodge địch chiếm, nơi đặt
chính phủ ma Mặt trận Giải Phóng Miền Nam). Tuy nhiên, có một đêm khoảng 4giờ
sáng, một đợt pháo kích 5-7 trái , một trái lọt vào khu gia binh ngay barrack của
Hiền. Được tin, tôi đến nơi, xe cứu thương cũng mang những người bị thương ra gần
hết. Đến bịnh viện Biên Hoà, đợi đến sáng biết kết quả: vợ chồng và 2 cô em vợ
của Hiền đều chết, trừ đứa con gái 3 tuổi chỉ bị thương nhẹ. Quá đau buồn trước
cảnh chết thê thảm nầy, tôi thẩn thờ trở lại hiện trường. Phòng của ngủ vợ chồng
Hiền rộng, 2 giường cách nhau khá xa.
Máu me loang lổ, nệm mền, quần áo tung tóe khắp nơi. Đây là khu nhà thời Pháp để
lại, khung nhà bằng sắt. Trái hỏa tiển 122 ly xuyên qua mái, chạm thanh sắt xà
ngang nổ, miẻng tạt qua ngay hai giường
nằm làm chết 4 người.
Nhân dịp ăn ở nhà hàng La plage bên bờ
sông Biên Hòa, bọn bạn chỉ đình Tân Lân, hơi xéo phía trên, nơi thờ phụng Tướng
Trần Thượng Xuyên. Vì linh hiển nên dân Biên Hòa sùng bái ông như Thần. Nhìn từ
ngoài vào trong đình thờ, ngoài các hoa văn chạm trổ, thếp vàng, phần còn lại
sơn toàn là màu đỏ. Trong 40 năm qua, không biết có bao nhiêu anh Cán Cộng luôn
tôn thờ cờ máu đã đi gặp Max Lênin chưa. Hiển linh, xin Ngài tận diệt luôn bọn
theo cờ đỏ sao vàng cho dân đỡ khổ.
Nói đến Biên Hòa phải nói đến những đặc sản nổi
tiếng: bưởi Biên Hòa như bưởi Thanh, bưởi
Đường, bưởi Da Láng ở cù lao Phố. Bưởi Ổi ở Tân Triều, núi Bửu Long. Sản phẩm nổi tiếng nữa là đồ gốm Tân Vạn, gạch
ngói quận Công Thanh (dọc theo hai bờ sông Đồng Nai cạnh vòng đai phía Tây và
Tây Bắc phi trường ra tới cầu Gành, chợ Đồn). Dân Miền Tây của tôi, ai có nhà lợp
ngói Biên Hòa đều là dân nhà giàu.
Nói đến Biên Hòa không thể quên quán ăn mà anh
em KQ chúng tôi, mấy ngày đầu tháng hay la cà
thăm viếng, cuối tháng cơm chỉ, cơm tay cầm thường xuyên. Từ cổng số 1 ra,
quẹo phải đến rạp hát Biên Hùng, có quán cơm bình dân Bích Liên. Nơi đây ba chàng hảo hán độc thân vui tính,
chiều thường ra ăn “cơm chỉ”. Một hôm, vừa
bưng cơm ra, chị Ba chủ quán hỏi: còn cậu kia đâu? Tiên Gù không trả lời, cầm đôi đủa gác ngang
chén cơm… Bảo Địa rưng rưng chỉ chén cơm cho Châu Dóc Sỏi: “Nó vừa mới hy sinh,
chị” làm chị sụt sùi ngấn lệ. Cả quán ai
nghe cũng buồn lây. Ăn cary Tư Dữ hoặc ngồi bẹp mấy xạp lề đường, ngõ vào ga xe
lửa lai rai nghêu, sò, ốc, hến, chem chép… chắc chẳng gì bằng. Từ cổng 1 quẹo
trái ra ngã ba cây Mít, sang thì vào Biên Hòa Club của ông Tám Mộng, đồng thời
cũng là chủ của rạp hát Biên Hùng. Nếu thích, chạy thẳng ra Hố Nai, Tân Hiệp tham
dự “hạ cờ tây”. Còn từ cổng số 2 ra, quẹo phải về Saigòn theo ngã xa lộ Đại Hàn. Vừa qua cầu mới Hoà An, gần đầu cầu, bên trái
là quán Bình Minh của Ba Đức có cá tôm,
chim rắn cũng nổi tiếng. Xéo cửa Bình Minh, bên kia đường là quán lá có chim đủ
loại. Chim đang sống trong lồng, thích con nào chỉ, 10-15 phút sau có món nhậu
đem ra ngay. Nếu không dừng ở đây, bạn có thể theo đường hữu ngạn sông Đồng Nai
ra cầu xa lộ, có quán thịt rừng của Mười Diên cũng hao rượu lắm. Cũng khu nầy
còn có lò gốm của ông Bảy Vạn, một liệt lão, đầu bạc phơ quắc thước, thích đám
nhậu KQ phá mồi lắm. Cũng từ cổng số 2, nếu đi
thẳng theo đường Dóc Sỏi, nơi có nhiều “của lạ” (không ai nhớ tên thực của
nó là đường gì). Tại ngã ba ra Biên Hùng là quán cơm Tân Phước, đặc biệt, canh
chua cá bông lau, cá rô kho tộ. Vì ngon
quá mà một anh chàng trực thăng rước luôn cô gái rượu của ông chủ. Bạn tiếp tục đường nầy ra tới chợ là nhà hàng
người Hoa Hạnh Phước. Từ đây nếu quẹo
trái cách đó một khu phố có quán cơm xã hội cho những người nghèo, do chính phủ
đài thọ. Tôi đã ăn tại đây vài lần cho biết, chỉ trả 15- 20 đồng gì đó, không bằng
tiền ¼ tô phở, cũng cơm canh, xào mặn, ăn tạm được. Cơm trắng, nước nắm ăn bao
nhiêu cũng được. Qua khỏi khu buôn bán và dinh Tỉnh Trưởng, dọc bờ sông bên tả
ngạn nầy có Tân Hiệp Quán và Tuyết Hồng.
Một trong hai quán nầy đặc biệt có xôi phồng. Họ làm từ cục xôi bằng nắm tay, khi chiên, nở lên
to, bọng ruột như trái banh, vàng lườm, thơm
phức, dòn tan, ăn với gà nướng hay chiên, ngon tuyệt. Dĩ nhiên đây là món gia
truyền, mấy mươi năm nay tôi chưa thấy nó qua Mỹ hay đã thất truyền rồi, uổng
thật. Tới nữa là Nhà hàng Pháp La Plage trên bờ sông, như tôi đã nói trên, rất
đắc. Hồi mới về Biên Hòa, chân ướt, chân
ráo, Xếp tôi, dân tốt nghiệp pilot bên Tây, thích uống rượu Tây, theo kiểu Tây,
gọi tôi đi nhậu. Ông bảo đi cho biết,
ông bao, cũng may tôi có chai Martell Medaillon.
Đã biết nơi nầy giá cắt cổ nên hai đứa chỉ kêu một dĩa cá cơm lăng bột chiên,
dĩa salad cà dầu dấm và chai Perier. Nhậu
xong tính tiền, tôi liếc xem: Mấy món đó, cộng tiền công khui rượu bằng giá 2
chai rượu. Xếp bèn chơi ngông đưa tiền
ăn, tiền tip trọn mười ngàn, hết 1/5 lương xếp, làm anh bồi bàn há hốc miệng. Đó
là lần thứ hai cũng là lần chót tôi vào La Plage. Bọn pilot nghèo chúng tôi ít khi vào, trừ trường
hợp mấy thằng bạn thân, dân sự ở Saigon lên mời nhậu. Chạy thêm chút nữa nếu quẹo
phải đến cầu Rạch Cát qua Cù Lao Phố (cù
lao Hiệp Hòa). Ở đây có ông đại úy phân chi khu trưởng, chịu chơi, thích nhậu.
Đôi khi buồn, ông cho lính gác cầu chận xe tôi lại, bắt vào nhậu vì mấy chú lính
nhớ số xe tôi. Biết tôi ngày nghỉ thích đi câu tôm nên ông rũ tôi đi câu. Giao hẹn: bọn KQ chịu tôm, ông chịu rượu và
ghe. Tôi thường câu trong bến tàu Hải quân ngoài cầu xa lộ. Vài đứa vừa câu vừa
uống bia, chiều về cũng được 3-4 kg tôm cho bà xã vừa lòng. Đêm đó nhằm lúc nước lớn, câu 2 giờ mà không
được con tôm nào, bốn năm đứa nhậu khan muốn xỉn. Ông chọc quê, bảo chú lính đốt
lò làm tôm nhúng giấm. Thấy tôi kiên nhẫn câu, anh em đói chịu không nổi, anh
bèn kéo 2 bao cát đựng đầy tôm bên hông ghe lên. Bọn câu tôm tôi quê quá cười
xòa. Từ cù lao Phố qua cầu Gành, quẹo phải đến chợ Đồn có quán đầu cá lóc hấp Hồng
Hoa của chị Năm và quán cô em gần đó, vừa rẻ vừa ngon.
Đã nói về ăn, phải nhắc một chút ít về học. Biên Hòa có tất cả 3 trường
trung học: Trường công Ngô Quyền, trường bán công Trần Thượng Xuyên và trường
tư thục Khiết Tâm của cha Yến. Dân
KQ độc thân cũng ưa lượn qua mấy trường nầy lắm. Cũng có vài nàng dâu KQ đang dạy ở đây, nên
các đấng phu quân chỉ có bổn phận làm tài xế chứ không dám nhìn ngang, liếc dọc.
Đó là tất cả những gì tôi biết và còn nhớ,
qua góp ý của anh bạn, dân Biên Hòa, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Đây cũng là
dịp để ôn lại những kỷ niệm êm đẹp trong thời gian tôi ở Biền Hòa và để gợi lại
cho anh em KQ đã từng gắn bó với xứ bưởi
nầy. Trong bài hát nào đó có câu: “…Em gái Bắc Ninh, anh trai Biên Hòa…” Có phải
các anh chàng pilot của chúng ta không đó???
Phi Đoàn 237 là PĐ Chinook đầu tiên của Không
Quân VN nên thu hút một số đông sĩ quan cấp Đại úy nhiều kinh nghiệm chiến trường
từ 5 PĐ trực thăng hiện hữu tình nguyện gia nhập. Thêm vào đó, những hoa tiêu tốt
nghiệp hàng đầu các khóa trực thăng huấn luyện tại Fort Hunter- GA, được tuyển
chọn bay xuyên huấn Ch-47 Chinook tại Fort Rucker, Ala. Những hoa tiêu kỳ cựu đều
biết nhau trước, còn các anh em mới, tôi đã gặp tại các trường bay nên xem nhau
như trong gia đình, rất thân thiện cởi mở.
Là PĐ đầu nên quân số đầy đủ, phi cơ hiện
hữu 25 chiếc trên cấp số 18. Do đó phải tham dự các cuộc hành quân qua Cambodge
và biệt phái cả 4 vùng chiến thuật. Tổng kết tổn thất về nhân mạng và phi cơ rất
cao. Riêng mùa Hè đỏ lửa 1972, mặt trận
An Lộc, PĐ 237 hy sinh 14 nhân viên,
trong đó có Th/tá Phi Đoàn Phó. Một
Th/tá Phi đội trưởng & Tr/úy bị bắt làm tù binh, Cơ phi, xạ thủ Áp tải đều hy
sinh. Ba phi cơ bị thiêu hủy hoàn toàn. Đến năm 1974 chiến trường khốc liệt, dù có đủ
4 PĐ Chinook cho 4 Vùng Chiến Thuật, nhưng thỉnh thoảng PĐ tôi cũng phải biệt
phái tăng viện trong những cuộc hành quân lớn. Căn
cứ Biên Hòa có 2 đơn vị lớn: SĐ3KQ và Bộ Chỉ huy Kỹ Thuật Tiếp Vân. SĐ3KQ gồm
các Không Đoàn khu trục 23, KĐ63 F-5, KĐ43CT trực thăng, KĐYểm Cứ và KĐ Bảo
Trì-Tiếp Liệu. Chúng tôi đã sát cánh chiếu đấu, vui buồn đều có nhau nên thân
thiện. Sống gần nhau lâu năm, cũng không lạ gì với anh em BCHKTTV.
Đầu
năm 1975, tin tức chiến trường dồn dập, bất lợi: Ngày 10/3 Buôn Mê Thuột bị tấn
công. Sau 3 ngày Quân dân ta chống trả mãnh liệt, nhưng cũng mất về tay địch. Sau
đó Phước Long, một tỉnh Đông Bắc giáp Biên Hoà thất thủ. Tiếp theo di tản chiến
thuật, rút quân khỏi Pleiku tái phối trí. Khoảng đầu tháng 3, cậu em họ bên vợ tôi vừa tốt
nghiệp bác sĩ quân y lên trình diện hậu cứ Liên Đoàn Biệt Động Quân của Đại Tá
Tây, anh ruột của các anh Tám, Chín, Mười của KQ, đang đóng tại Long Bình. Tiện
đường cậu ghé Biên Hòa thăm vợ chồng tôi. Ngồi nói chuyện mà cậu cứ liếc hai
hoa mai vàng mới toanh trên ngực có vẻ vừa lòng lắm. Cậu thích thú kể chuyện
huyên thiên về ông Tiểu Đoàn Trưởng trẻ, trông rất oai hùng và quá chịu chơi.
Tuần lễ sau, Tiểu Đoàn lên Pleiku, chưa được 10 ngày, Pleiku triệt thoái, cậu
thất lạc, mất tích. Cả nhà ông chú lo lắng,
thất điên bát đảo vì đứa con cưng mới tra trường không biết sống chết ra sao. Thế
là 3 tỉnh Cao Nguyên Trung Phần vào tay địch. Mấy ngày sau, vợ thằng bạn chí
thân của tôi chạy lên Biên Hòa khóc lóc, làm sao cho chồng chị (cũng Biệt Động
Quân) bị thương nặng rút từ Pleiku về,
đang nằm ở Quân y Viện Nha Trang. PĐ tôi tăng phái cho Nha Trang để triệt thoái
quân ở Khánh Dương, nhưng tôi cũng rất bận rộn, thì giờ đâu đi tìm bạn. Cũng
trong tháng 3, vì tối mật nên nửa đêm tôi phải đích thân qua Quân Đoàn III họp.
Khi tôi vào phòng đang họp. Đ/tá thuyết
trình viên bảo tôi 6 giờ sáng mai cho 6 chiếc Chinook lên Lai Khê nhận lệnh.
Nhiệm vụ của tôi chỉ có thế, họp không quá 3 phút. Sáng hôm sau, tôi dẫn 6 chiếc
lên Lai Khê. Trời tờ mờ sáng, vừa xuống máy bay, một đám đàn bà trẻ con bu lại
hỏi phải hôm nay rút An Lộc không? Tôi
không trả lời và hỏi lại: các chị ở đâu đến đây. Họ bảo hôm qua ở Saigon nghe
tin hôm nay rút An Lộc nên lên đây đón chồng. Tôi thầm nghĩ, chính tôi còn
không biết, chỉ biết lên đây nhận lệnh. Thế mà người dân đã biết hôm qua, lộ hết
rồi. Khi vào nhận lệnh, đúng như vậy:
hôm nay triệt thoái An Lộc. Sáu chiếc
câu 6 cây đại bác105 giả và một túi bao đựng cát, ở xa trông giống như câu súng
và đạn thật. Tuy nhiên vì quá nhẹ, chao
đảo rất khó bay. Chuyến đầu đáp xuống Xa Cam trên quốc lộ 13 gần An Lộc. Bỏ súng đạn giả xuống, lấy súng thật và bốc
quân về Chơn Thành, cũng trên quốc lộ 13, cách Lai Khê khoảng 10 km. Tại An Lộc
khi cất cánh, địch pháo kích vài quả. Các chuyến sau cũng bị pháo kích dọa sau khi
chúng tôi cất cánh xong. Chắc biết rút quân nên họ không muốn làm gián đọạn. Xong phi vụ, chiều về, không chiếc nào trúng mảnh
pháo kích cả.
Cuối
tháng 3 Huế, Quảng Ngãi di tản. Chiều 29/3/75,
tôi cất cách từ Hàm Tân về Biên Hòa, nghe trên tần số tiếng anh Phi đoàn Trưởng
PĐ247 Đànẵng, tôi đùa có đem gì về nhậu không và được biết Đànẵng vừa rút bỏ
hôm nay. Tôi ngỡ ngàng như trên trời vừa rớt xuống. Phù Cát, Nhatrang triệt
thoái ngày 1 tháng 4. Thế là vô vọng, kể như thằng bạn kẹt luôn ở Nha Trang… Chuyện
xảy ra nhanh như cơn ác mộng. Mấy ngày sau 2 chiếc của PĐ ra Phan Rang tăng
phái, chiều về, tối Phan Rang bỏ ngỏ. Chiều ngày 4/ 4 một chiếc C-5 Galaxy di tản cô
nhi, rớt cạnh phi trường Tân Sơn Nhứt. KĐ43CT điều động mấy chiếc trực thăng và 1 chiếc
chinook từ Biên Hòa xuống tiếp cứu phi cơ lâm nạn. Tôi rất ngạc nhiên thấy chiếc
C-5 đáp song song bên phải phi đạo R-25 trên khoảng đất ngoài vòng đai, rã ra từng mảnh
mà sao không đáp được vào phi đạo. Trong số 250 cô nhi cùng 40 nhân viên điều
dưỡng và phi hành đoàn, chết gần phân nửa. Trước cảnh nầy tôi cũng không ngăn
được nước mắt, tiếc thương các trẻ thơ vô tội và những người làm việc thiện.
Ngày
6 tháng 4 được lệnh 4 chiếc ra Phan Thiết triệt thoái Tiểu Đoàn 82/LĐ 24 Biệt Động
Quân của Th/tá Vũ Mộng Long, từ Di Linh về Phan Thiết rồi Long Khánh. Vì Hớn Quản,
Tánh Linh đã mất nên không thể bay qua đường đó, phòng không quá nặng. Trạm
xăng phi trường Phan Thiết quá nhỏ, không đủ xăng cho Chinook nên tôi dẫn thêm
hai chiếc nữa câu liên tục những túi xăng 2x500gallons ra Phan Thiết để đổ cho
Chinook. Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân quá vất vả tại Di Linh, phải cho Chinook
đón về vì lương thực đạn dược đã cạn kiệt. Trên quốc lộ 1, những đoàn xe quân đội, dân sự
và đủ các loại phương tiện di chuyển người và người nối đuôi rồng rắn không dứt.
Hôm sau tiếp tục chuyển TĐ82/ LĐ24 BĐQ. Hai
hôm sau, tôi bay phi vụ ngoài Phan Thiết, xe cộ cũng như nêm trên quốc lộ 1. Chiều bay về Biên Hòa, tắm rửa xong, đang ăn
cơm, ngồi nghe đài BBC: Phan Thiết mất.
Ngày
8/4 Tr/úy trở cờ, phản loạn Nguyễn Thành Trung PĐ-F5 Biên Hòa dội bom
Dinh Tổng Thống. Vài ngày sau Tr/tướng Tư Lệnh KQ lên Biên Hòa nói chuyện với
các đơn vị trưởng. Đám phi đoàn trưởng
chúng tôi lo ông cho uống café đắng vì vụ thằng Trung. Ông nói ba điều bốn chuyện
xong, ông bảo: chúng ta có thể kiểm soát hành động, nhưng không thể kiểm soát được
tư tưởng của nhân viên. Ông lấy ví dụ ông đang nằm với bà nhà, nhưng nghĩ đến
người khác thì làm sao bà biết được. Nghe
câu dí dỏm của ông ai cũng cảm thấy nhẹ nhõm, cười thoải mái.
Đầu tháng 4, PĐ 237 lần lượt nhận thêm nhân
viên của 2 PĐ 247 và 241 từ Đà Nẵng và
Phù Cát về. Dù trình diện không đầy đủ, quân số cũng hơn hai trăm. Nhờ vào tinh
thần kỷ luật và tự nguyện của anh em 3 PĐ, nên việc điều động hành quân không bị
xáo trộn.
Mặt Bắc tạm xong, PĐ lại qua mặt
trận Long Khánh bắt đầu ngày 9/4. Hơn mười ngày tiếp tế thực phẩm, đạn dược cho
Sư Đoàn 18 của Tướng Lê Minh Đảo và TĐ 82BĐQ đang quần thảo đẫm máu, khốc liệt
với những SĐ Bắc Việt, đồng thời di tản dân về vùng an toàn hoặc Long Bình. May
mắn thay phi cơ chỉ bị lãnh đạn, nhưng không bị thiệt hại nào đáng kể. Cũng nhờ KQ dội 2 trái CBU hạng nặng gây thiệt
hại nặng nề và làm chùn bước tiến của địch. Đêm 20 tháng 4, SĐ18 rút quân khỏi Xuân Lộc, lãnh thổ VNCH thu hẹp: tuyến đầu là
vòng cung từ Hàm Tân qua Dầu Dây phía Đông lên Chân Thành, Lai Khê mặt Bắc, và Tây Ninh Tây Bắc.
Cũng đầu tháng Tư, tôi nhận mật lịnh: PĐ luôn
phải có 2 chiếc Chinook trực đêm, mục đích sẽ di tản nhân viên sứ quán VN tại
Nam Vang khi cần. Ngày 15/4, Cao Miên thất
thủ, không ai nghe nhắc lại lịnh trên, tôi thở ra nhẹ nhõm.
Khoảng 6 gìờ chiều ngày 21/4/75, tôi và ông anh vợ ở Saigon lên thăm,
đang uống lai rai, xem TV nghe Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn tố cáo
chính phủ Hoa Kỳ, TT Nixon nuốt lời hứa, bỏ rơi Đồng Minh VNCH. Cuối cùng ông
tuyên bố từ chức. Tôi ngồi thừ ra, thảng thốt, không còn muốn ăn uống gì nữa.
Tiếng súng càng ngày càng gần thủ đô Saigon. Mức độ pháo kích phi trường Biên Hòa cũng tăng
cường độ và chính xác. Thấy quá nguy hiểm,
ngày 26 tháng 4 tôi gửi vợ con về gia đình ông bà nhạc gia ở Saigon. Trong lúc
đó tất cả các PĐ khác cũng được lệnh dời về Tân Sơn Nhứt, các Phi Đoàn Trưởng đều
về theo. Riêng PĐ237, Phi Đoàn Phó về, còn tôi phải ở lại Biên Hòa, tôi cũng
không biết lý do. Nhờ sự cố gắng của Phi Đạo 237 và hoa tiêu bay thử nên tổng số
phi cơ PĐ khả dụng được 18 chiếc tốt. Mỗi đêm BTLKQ cho một chiếc trở lại Biên
Hòa túc trực. Trưa 27 tôi và Đ/tá KĐT lấy
1 chiếc Chinook đưa gia đình ông về Tân Sơn Nhất để di tản. Đây là gia đình duy nhứt của KĐ43CT có trong
danh sách di tản. Trở lại Biên Hòa, không việc gì làm, nằm nhà chờ nghe pháo
kích. Trốn pháo kích mãi cũng chán nên chiều tôi cũng ngồi ngoài sân nơi mà bạn
bè gọi đùa là “Cư xá quý Tộc”, vì toàn là Snack Bar khang trang mà các ông bà chủ
giao lại cho SĐ, gần Câu Lạc Bộ Trần Thế Vinh. Tôi trầm ngâm độc ẩm. Do có nội
tuyến nên VC pháo kích 122 và 130 ly rất chính xác. Khuya đêm đó, phi hành đoàn Chinook biệt phái về nhà tôi kiếm
cơm ăn. Tội nghiệp anh em đói quá. Hiện
tôi có nuôi một con gà cho các con vui, đang ấp. Tôi rất tiếc thương nó, nhưng cũng để anh em
làm thịt nấu cháo ăn. Chúng tôi vui vẻ ăn uống, đâu ngờ đó là đêm cuối cùng chia
tay. Sáng hôm sau, tức 28/4, chiếc
Chinook biệt phái về lại Tân Sơn Nhất cùng những chiếc khác của PĐ bay tiếp tế,
chuyển quân cho TĐ Dù khu Vũng Tàu Bà Rịa. Khoảng 1 giờ trưa, nóng lòng gia
đình ở Saigon, tôi lên BTL SĐ3, (tạm thời đặt tại KĐ Yểm Cứ tránh pháo kích)
xin về Saigon bằng phi cơ vài tiếng để thăm gia đình. Gặp Đ/tá KĐT nhờ ông ký Sự
vụ lệnh. Ông bảo tôi vào gặp Tướng ký
cho chắc. Vào phòng tôi gặp Ch/Tướng Huỳnh
Bá Tính, và Ch/Tướng Từ Văn Bê đang nói chuyện nên tôi chưa kịp trình SVL. Bỗng có tiếng rè rè từ loa máy hotline, và tiếng
Trung Tướng TLKQ: “cậu Tính.” Tướng Tính
trả lời: “Tính nghe.” Giọng Tướng Minh ồ
ồ, nhưng rõ ràng từng tiếng: “Lát nữa có thằng Mỹ đi chiếc trực thăng Air
America lên gặp cậu. Tôi không biết nó sẽ
nói gì với cậu, nhưng khi nó cất cánh, cậu thiêu hủy tất cả những gì cần thiết.”
Trả lời xong, Tướng Tính bảo tôi chờ. Ông hỏi quân số của Tướng Bê, ông kết luận: “Anh
khoảng 6.000, tôi 6.000 là 12.000. Chính,
cậu có thể đem được bao nhiêu Chinook lên đây?” Tôi trả lời: “Thưa Tướng, chắc hơn 10 chiếc.” Tướng căn dặn tôi những ưu tiên thứ tự: An
ninh, gia đình quân nhân, quân nhân, và cuối cùng là 600 quân nhân Liên Đoàn Phòng
Thủ. Tôi định bước ra, sĩ quan trực vào báo với Tướng Tính: thiết giáp của Quân
Đoàn III biệt phái phòng thủ phi trường đang rút về. Tướng bảo sao lạ vậy. Tôi nhìn đồng hồ treo tường lúc đó là 1giờ 15
chiều. Tướng Tính bảo sĩ quan trực lấy máy PRC25 đem ra xe tôi, để tôi liên lạc với ông và
Chinook. Khi ra xe, phản ứng tự nhiên, tôi
chạy thẳng về cư xá cổng 2, nơi mà vợ chồng tôi và 3 cháu sống êm đềm trong suốt
5 năm qua. Tất cả gia đình ở đây đều về TSN, vắng lặng khác thường. Vào nhà,
tôi đi một vòng các phòng, bàn ghế, đồ đạc còn ngăn nắp nguyên vẹn. Hình ảnh vợ
con hiện ngay trong trí, tôi liên tưởng đến 3 bao cát đựng 3 bộ đồ của mỗi
đứa, để cột chặt vào người khi chạy loạn. Vợ tôi tỉ mỉ may ở mặt trong bao cát
một túi vải nhỏ có tờ giấy ghi địa chỉ ông bà ngoại cháu, tên họ mỗi đứa và một
khâu vàng. Cẩn thận ghi chú ai thấy đứa bé thất lạc nầy xin mang về địa chỉ
trên, xin hậu tạ. Vợ tôi bảo đây là kinh nghiệm năm Tết Mậu Thân ngoài Huế. Tôi
đứng thẩn thờ… lại định lấy cây súng shotgun hay AK-47 theo,
do dự bỏ lại, vói tay tắt máy lạnh. Khóa
cửa, bước ra nhìn cây ổi xá lỵ trái oằn nhánh, 2 cây mãn cầu ta, hàng chôm chôm
trước mặt đã đơm bông kết trái. Khóa cổng,
nhìn ngôi nhà thân thương lần cuối: cây trái xum xuê. Nghiêng đầu nhìn ra sau hè: cây mít, hai cây
mận màu ngọc thạch và hai cây táo Thái lan đầy trái mà con Ci thằng Bi 5-3 tuổi
của tôi thích bẻ trái. Biết bao kỷ niệm sâu
đậm, lưu luyến mà đành đoạn phải đi. Trước khi lên xe, sợ dân phá rào, phá nhà,
tôi treo sâu chìa khóa trên cổng. Chạy
qua PĐ vào phòng lấy túi helmet, bảo sĩ quan trực chuẩn bị di chuyển về Saigon.
Hai hôm nay, dù PĐ dời về TSN, ở đây
không làm việc, nhưng các sĩ quan trực vẫn chia phiên trực đầy đủ. Tôi lái qua West
Ramp liên lạc với Chinook của PĐ. Tại
đây gia đình KQ và lính bắt đầu tập hợp. Nhìn thấy chiếc trực thăng sơn trắng của
Air America bay ngang đầu, tôi nhớ ngay lời TLKQ. Khoảng 5 phút sau, khu của Kỹ Thuật Tiếp Vận bốc
khói đen trước nhứt. Nhớ các vụ di tản Miền Trung và khi thấy các kho chứa vật
liệu cháy khói đen nghịt trời, ai cũng hoảng hốt. Gia đình và cả binh sĩ cũng
lao nhao toán loạn, hàng ngũ rối loạn. Chuyến
đầu, 12 chiếc, tôi vô cùng vất vả. Gia
đình quân nhân, kể cả binh sĩ chen lấn, xô đẩy nhau lên phi cơ làm nghẽn lối, hỗn
loạn. Khi cất cánh có người còn đeo tòn
teng, tôi phải gọi pilot đáp xuống lại. Những chuyến sau tôi đỡ vất vả. Tôi và Tướng Tính vẫn liên lạc thường xuyên. Tôi
dự trù một chiếc chở 100 hay 110, phải mất 9-10 chuyến. Vì gần, bay thấp nên
nhanh. Nhưng càng về chiều, các vụ thiêu hủy càng nhiều những cột khói đen bay
kín phi trường làm pilot rất vất vả mới đáp
được vào đường di chuyển (taxi way). Đó cũng là một trở ngại lớn. Không ngờ chuyến thứ 5 một chiếc bị bắn ở cầu
Hang thủng bình xăng. Tuy không bị
thương, nhưng cũng phải đổi lộ trình. Đến khoảng 5 giờ chiều, phi trường TSN bị
đám phản loạn Nguyễn Thành Trung đánh bom, anh em không biết nên hốt hoảng bay
toán loạn mất liên lạc. Không liên lạc
được với Chinook, tôi gọi Tướng Tính và cũng không nghe trả lời. Tôi lại mất liên lạc với cả Tướng nữa sao. Trước
đây thỉnh thoảng ông nhắc tôi: “Cậu cố gắng lo cho quân nhân và gia đình về
Saigon.” Tôi lặng người, đứng nhìn Biên
Hòa chập chùng trong khói lửa. Biên Hòa thân yêu, giờ đây trông thê thảm, tang
thương, lòng tôi bồi hồi, đau xót. Biên
Hòa thân thương của tôi giờ biến thành biển lửa. Xe cộ đủ loại bỏ chồng chất ngổn ngang. Quần áo, giầy dép, đồ
đạc, giấy tờ rãi đầy trong bải đậu West Ramp. Số người còn lại cũng nháo nhác đợi
trông. Hơn nữa, chiếc xe pick-up của tôi có lẽ chạy chậm tới lui từ trưa đến giờ
nên chạy cà giựt, lại càng lo lắng. Tôi nhớ
cách đây một giờ Tr/úy Đàm Quang Khánh, sĩ quan trực PĐ, trước khi lên Chinook
về TSN còn nhắc tôi: “ Tr/tá về đi, em đã kinh nghiệm ở Đànẵng rồi.” Tôi tự hỏi:
không lẽ tôi cũng bỏ chạy sao? Trời càng tối, nhìn cảnh phi trường mịt mù khói
lửa, ảm đạm, thê lương, sự lo lắng của tôi càng cao. Bất ngờ tướng Tính gọi,
tôi mừng như sắp chết đuối vớ được phao, cứ ngỡ ông còn trong Bộ chỉ huy. Nhưng
tôi hoàn toàn thất vọng, vì vị trí tướng hiện tại ở Vũng Tàu. Tôi gọi Chinook
khàn cả cổ. Mãi tới hơn 7 giờ tối tôi mới
liên lạc được một chiếc. Khi phi cơ lên tới BH, trời tối, khói đen che kín bãi
đáp nên phải đáp gần vòng đai cuối phi đạo phía Tây. Lên tàu xong, cất cánh qua núi Bửu Long đến cầu
Mới bị bắn một tràng trung liên. Tôi lên thay co-pilot. Nghe trên tần số giọng
quen: “Các phi cơ trên tần số nầy, đổi qua tần số guard nhận chỉ thị.” Đổi tần số guard, tôi
nghe: “các phi cơ lấy hướng Vũng tàu.” Tôi yên lặng, thầm nghĩ vợ con mình còn ở dưới
đất, ra Vũng tàu làm gì? Ngay lúc đó phi
hành đoàn la toán lên: “ SA-7...SA-7…” đồng thời anh em bấm trái sáng chống
SA-7 (anti-SA-7 flare). Ánh sáng chớp chớp
từng đợt tỏa sáng trong phòng lái. Tôi yên tâm hệ thống flare hoạt động tốt. Thình lình một luồn ánh sáng làm sáng rực cả trong
tàu và phòng lái. Tôi thoáng nghĩ bị
trúng SA-7, chờ nổ chết thôi. May mắn
thay, trái SA-7 trúng flare nổ, chắc cách thân tàu không xa nên lửa lóe sáng. Nhìn lại cao độ 4.000 bộ (feet), phía Nam Long
Thành. Nhờ ban đêm, nên Cơ Phi ngồi sau Ramp (cửa sau), Áp Tải, Xạ Thủ ngồi hai
bên cửa sổ nên phát hiện ngay tia lửa của hỏa tiển tầm nhiệt SA-7 và bấm flare
kịp thời. Đưa Tr/ úy Thanh lái bay về TSN. Từ trưa đến giờ
không cơm nước nên đói khát và mệt lả người. Điếu thuốc đắng cả cổ, đầu óc mông
lung, rối bời. Không để ý Thanh liên lạc với TSN, nhưng khi tôi nghe TSN quát
chữi với Thanh. Tôi chụp cần lái: “Chắc loạn rồi, anh chưa bao giờ nghe Đài Kiểm
Soát dám chữi pilot, có thể VC đã chiếm TSN không chừng?” Nhìn ánh đèn đêm thành phố Gò Công và TSN tôi
biết vị trí chúng tôi ở trên Rừng Sát
cao độ 4000 bộ. Chắc Thanh cũng lo lắng
như tôi nên bay lạc qua đây. Đột nhiên,
mấy phát phòng không 37ly nổ sáng rực, tỏa ra những vòng tròn khói đen ngang
cao độ làm tôi giật mình, kéo lên, đồng thời quẹo phải lấy cao độ. Tôi nhớ ra
súng phòng không thường chỉnh cao độ số chẳn nên tôi giữ ở cao độ lẻ 5500 bộ bay
về Saigòn. Tôi không dám đáp TSN nên đáp vào trường đua Phú Thọ. Xem tình hình xong, tôi tắt máy. Đ/tá Lộc Tư Lệnh SĐ101 Biệt Động Quân tân lập,
lái xe Jeep ra gặp tôi: “Biên Hòa sao rồi?”
“VC chưa đến mà đã chạy rồi Đ/tá,” tôi trả lời. Có lẽ tôi mệt quá nên cáu, mất
lịch sự, trả lời nhát gừng ông vội vàng bước lại ôm vai tôi: “Bình tĩnh, vào
đây với anh.” Ông kéo tôi lên xe.
Tôi hẹn gặp anh em phi hành đoàn sáng mai tại đây. Vào phòng họp Bộ Chỉ Huy SĐ, ông bảo lính mang
cho tôi chai beer, tu một hớp, ngon chưa từng thấy. Chúng tôi ngồi nghe ông Tr/tá thuyết trình
tình hình. Quân của SĐ rải từ Hốc Môn về tới Saigòn. Địch kéo quân xuống khi gặp
BĐQ, họ tránh giao tranh kéo qua ngã
khác. Mục đích là tiến về Saigòn thật
nhanh. Tôi có hỏi riêng ý định của Đ/tá, ông bàn ra, còn kể công đã tham gia
cách mạng đảo chính TT Diệm. Thấy không hợp lý ở hoàn cảnh nầy nên tôi xin phép
về. Ông cho xe đưa tôi về nhà bà chị chồng
của cháu tôi, (chồng nó cũng là nhân viên PĐ tôi) trong cư xá Ấn Quang. Không dám về nhà ông bà nhạc, vì tôi sợ nhiều
người biết tôi. Vợ con tôi cũng trốn lại
đây. Thấy tôi cả nhà đều mừng. Ăn qua loa, ngủ một giấc lấy sức. Sáng hôm sau 29/4, cả gia đình tôi bồng bế
lang thang lội bộ từ Cư xá Ấn Quang về nhà ông nhạc tôi ở cư xá Lý Thường Kiệt, trước sân vận động,
đường Nguyễn Kim. Sáng sớm, anh em vào lấy tàu đổ đầy xăng xong, để lại chỗ cũ, về đem gia đình vào đi. Nhưng hỡi
ơi! Tàu bị đổi. Tôi vào kiểm chiếc để lại
chỉ còn 1700 Lbs xăng. Lúc nầy Tân Sơn
Nhứt lại bị pháo kích nặng, tôi không thể làm gì hơn. Pilot không máy bay cũng
như có súng không đạn. Vì không biết có
hạm đội Mỹ đậu gần Vũng Tàu, nên đành bó tay và cũng không thể liều chở nhiều
gia đình khi xăng quá ít.
Trong
những trại tù từ Nam ra Bắc, vào Nam, đôi khi tôi đứng lặng bên những khu rừng
già, đồi núi chập chùng xa thẳm, cũng có lúc ngồi bên khung cửa sắt của những
nhà giam chật hẹp nhìn những áng mấy bàng bạc lững lờ trôi, lòng hồi tưởng đến
chiến trường xưa, những khung trời kỷ niệm. Nơi có biết bao nhiêu bạn bè, đồng
đội đã hy sinh hay mang thân tù tội. Quốc Tổ Hùng Vương ôi! Hỡi Hồn Thiêng sông
núi bốn ngàn năm lịch sử, có thấu cho lũ
con cháu ngày nay bốn mùa khoai sắn thay cơm.
Tôi chợt nhớ đến một truyện ngắn mà thầy cho học
thời Trung Học: “ Con Cuốc Lạc Đàn.” Cũng như tôi, con cuốc Út đứng trong chiếc
lồng, nhìn bầu trời bao la tiếc rẽ, nơi mà nó từng bay nhảy vui đùa với anh em
bạn bè. Nó cũng vô cùng hối hận vì không nghe lời mẹ gọi, cứ mãi mê lang thang
rong chơi để cuối cùng bị mắc bẩy. Còn tôi, giờ thứ 25 của Biên Hòa, tôi vẫn
nhiệt tình thi hành nhiệm vụ, để giờ phút cuối cùng không còn phương tiện ra
đi. Tôi cũng không trách ai trong lúc dầu
sôi lửa bỏng, đất nước điêu linh, ai cũng muốn sớm thoát bàn tay đẫm máu của CS
mà lo lấy bản thân.
Dù
tôi qua đây sau, còn hơn không. Tôi dễ cảm
thông với những anh em còn kẹt lại cùng đồng bào Miền Nam thân yêu. So với họ, gia đình tôi còn quá diễm phúc. Tôi
luôn mang nìềm ân hận là chúng ta không làm tròn bổn phận đối với quê hương. Ước
nguyện cuối đời tôi là tất cả chúng ta, dù ra đi với bất cứ phương tiện nào, hãy
cùng đồng bào ruột thịt trong nước có cùng một hoài bảo, đấu tranh cho tương lai một Việt Nam độc lập,
hoà bình, dân chủ, tự do và giàu mạnh. Xin
tạ lỗi với Biên Hòa.
tạ lỗi với Biên Hòa.
Cúi đầu tạ tội cùng Mẹ Việt
Nam.
Đứa con lưu lạc:
Nguyễn
Phú Chính 237
No comments:
Post a Comment