TRỞ VỀ CỐ HƯƠNG
Phương-Vũ Võ
Tam-Anh
Được tin chị tôi đau nặng, tôi vội vã bay về Việt Nam mà lòng áy náy tưởng chừng như đang đi vào lòng địch.
Qua cái ải kiểm soát Nội Bài dù sao tôi cũng không khỏi hồi hộp khi nhìn những cặp mắt lầm lừ của đám công an súng sính trong bộ áo màu cứt ngựa, nhất là sau khi lật qua lật lại tấm hộ chiếu rồi trao lại cho tôi như còn tiếc rẻ một cái gì.
Khi ra khỏi sân bay Nội Bài thì tôi mới hoàn hồn. Như vừa qua được một trở ngại (dù chỉ trong tưởng tượng), tôi vui vẻ khen với thằng em ra đón tôi:
- Sân bay này khá đấy, có tầm vóc quốc tế, ai xây vậy?
Thằng em nhanh nhẩu:
- Ta đấy.
Tôi như bị dị ứng với chữ "ta", nhưng cũng khen:
- Bốn mươi năm hoà bình có khác, nhưng ai thiết kế?
Thấy tôi có vẻ hoài nghi, thằng em xuống giọng:
- Đúng ra thiết kế và công trình là do kỷ sư Nhật, ta chỉ phụ thôi.
Tôi buộc miệng:
- Ta làm thợ vịn mà được như vậy là giỏi lắm rồi...
Để cho không khí nhẹ hơn, tôi bèn đổi sang chuyện hỏi thăm gia đình. Thằng em cho biết chị tôi vừa mới "nhập viện".
Tôi nghĩ bụng: quái, ở cái xứ Việt Nam này có biết bao là Viện, nào là Viện Dưỡng Lão, Viện Bào Chế, Viện Uốn Tóc, Viện Thẩm Mỹ, Viện Ung Bướu, Viện Mồ Côi, Viện Kiểm Sát Nhân Dân và gần đây lại có thêm Viện Khổng Tử v.v... thì không biết chị tôi đã nhập viện nào?
Sau cái chuổi văn chương tân tiến đó thì tôi có được một khái niệm lờ mờ về con đường bệnh hoạn của chị tôi, nhưng tôi lại thấy rất rõ ràng về triệu chứng hiện tại của tôi, xây xẩm mặt mày, choáng váng, nhức đầu... Tôi nhờ thằng em đưa đến một nhà thuốc tây, nhưng nửa đường tôi lại đổi ý vì nghĩ rằng bệnh của tôi chắc không chửa bằng thuốc được, nên vào một hiệu sách lớn nhất Thủ Đô ở phố Trường Tiền để kiếm một cuốn tự điển may ra giải cứu được chứng nhức đầu của tôi.
Tôi hí hửng tìm được cuốn Tự Điển của cụ Đào Duy Anh và may mắn không phải sốt ruột xếp hàng chờ đợi để trả tiền như mỗi lần mua sách ở mấy tiệm sách Fnac hay Vỉrgin.
Trên đường tới sứ quán Pháp để thông báo sự
có mặt của tôi tại Việt Nam theo đề nghị của bộ Ngoại Giao, tôi có dịp đi ngang
qua Hàng Ngang Hàng Đào, những âm thanh rất gần gủi với Hà Nội, như dội lại
trong tôi lòng rạo rực của sáu mươi năm về trước.
Không như con dâu tôi (người Pháp) phải mướn một chiếc
taxi để qua đường,còn tôi thì
theo triết lý của thằng em là muốn qua đường thì phải nhắm mắt lại mà bước tới,
còn hể mở mắt thì cả ngày cũng không qua được, ở đây xe tránh mình chứ không phải mình tránh
xe.
Ở Việt Nam nằm bệnh viện có nghĩa gần như
mướn một phòng
khách sạn mà có được bác sĩ khám, còn mọi dịch vụ khác như cơm nước, vệ sinh, thuốc men... là mình
phải lo lấy, vì vậy lúc nào cũng phải có người nhà bên cạnh, không những để lo
săn sóc người bệnh mà còn để trả tiền trước cho mỗi dịch vụ y khoa như xét
nghiệm, X quang, siêu âm v.v..., mà phần lớn không ăn nhập gì với bệnh tình lúc
đó.
Bệnh viện đã chấp hành nghiêm chỉnh câu phương châm "tiền bạc đi trước, thầy thuốc đi sau", mặc dầu ở đầu trại có tấm bảng lớn sơn bốn chữ đỏ "Bệnh Viện Văn Hoá"!
Vào lúc nửa khuya, vì máu đường ruột ra nhiều
quá nên phải đưa chị vào khu cấp cứu
cách ly với bên ngoài. Tôi
cũng theo đám người nhà để chen lấn nằm la liệt trước cửa phòng để nghe ngóng
tin tức và nhất là để chờ gọi đến tên mà thanh toán
khoảng tiền cho mỗi dịch vụ y khoa như truyền máu, thở oxy, xét nghiệm v.v. .. mà trong kia chị tôi đang
chờ được thi hành nếu trả tiền xong.
Vào lúc nửa khuya, chúng tôi đưa chị về nhà mà ruột gan tơi bời. Trong sự tuyệt vọng tột cùng, nhưng còn nước còn tát nên chúng tôi vẫn tiếp tục điều trị như ở bệnh viện (chị có một rể bác sĩ và một dâu y tá), chỉ khác một điều là dùng được những thuốc tôi đã mang từ Pháp về mà khi còn ở bệnh viện, chúng tôi có đề nghị nhưng bị từ chối.
Rồi từ đó, bệnh tình chị tôi thuyên giảm rõ rệt như một phép lạ. Nếu có phép lạ chăng là ở sự khác biệt giữa "thuốc nội" và "thuốc ngoại", thứ mà người dân ráng tìm cho được không phải vì óc vọng ngoại mà chỉ để cứu mạng sống của người thân. Một tháng sau, tôi từ giả chị tôi với một nụ cười phấn khởi.
Nhớ lại khi mua giấy máy bay để về Việt Nam tôi vô cùng bối rối vì tôi phải làm trái với . định và sợ rằng khi trở lại Pháp sẽ vô cùng đau buồn vì e rằng chị tôi khó qua khỏi số mệnh. Thế nhưng không ngờ tôi lại được đi lang thang để có những nhận xét ngộ nghĩnh về cách sống của bà con nơi quê nhà.
Bức hình tôi chụp được bên ngoài hàng rào
bệnh viện Đà Nẵng, nơi chị tôi (và cả ông vua Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh) nằm điều
trị cho thấy còn có người vô tình mang bệnh tiểu đường hay lại cố coi thường
hay thách thức cái "hoành tráng" của toà nhà hành chánh chọc trời đồ
sộ ngay phía trước?
Một sung sướng khác của dân mình là rất nhàn
rỗi. Với 3 triệu công
chức phục vụ cho 90 triệu dân thì lấy đâu
ra việc mà làm, vì vậy ngày Tết được nghỉ những chín ngày tha hồ mà du hí.
Một anh taxi lái ngược đường vui vẻ khoe với
tôi là sẽ không bị phạt vì giờ này mấy chú công an giao thông bận đi đón con ở
trường thì lấy ai mà phạt. Anh taxi
thoải mái ra mặt nhưng tôi thì lại lên ruột.
Vào giờ làm việc mà mấy tiệm cà phê vẫn đông nghẹt, toàn người trẻ, họ thích la cà ở đây hơn là ngồi trong thư viện. Một bà mẹ than phiền là đã cẩn thận đưa rước con đúng giờ giấc ở trường nhưng cuối cùng cũng phát giác ra là cậu quí tử vẫn trốn học... rất đúng giờ.
Vào giờ làm việc mà mấy tiệm cà phê vẫn đông nghẹt, toàn người trẻ, họ thích la cà ở đây hơn là ngồi trong thư viện. Một bà mẹ than phiền là đã cẩn thận đưa rước con đúng giờ giấc ở trường nhưng cuối cùng cũng phát giác ra là cậu quí tử vẫn trốn học... rất đúng giờ.
Nhà chị tôi có một đứa cháu 13 tuổi mà tôi chưa bao giờ gặp mặt trong bửa cơm tối vì vào giờ đó nó phải đi học, nó học 7 tiếng mỗi ngày, 4 tiếng với cô giáo ở trường, 3 tiếng học thêm với chính cô giáo đó. Như một thông lệ, trong giờ chính thức cô giáo chỉ dạy...chiếu lệ, còn giảng dạy đúng chương trình thì phải đợi vào giờ học thêm để cô kiếm chút tiền còm, nếu không cô sẽ...đói.
Nguyên tắc đó được một nhóm bạn trẻ mặc những chiếc áo có in mấy chữ "du họcsinh.net" mà tôi gặp trong một chyến du lịch ở Campuchia xác nhận như vậy. Họ còn cho tôi biết thêm là phần lớn du học sinh đều nhắm mục đích chính là để... ở lại nước ngoài.
Trong số những tự do mà dân mình được hưởng phải kể đến tự do giao thông mà gần đây ký giả Mỹ Llewelling King gọi đó là một kỳ quan giao thông. Tất cả những quy luật trên thế giới đều vô hiệu với Việt Nam đưa đến cho người lái xe cái cảm giác... tứ khoái.
Khoái thứ nhất là được "U turn" bất
cứ lúc nào ở đâu, ngay cả nơi có bảng cấm hay trên đường một chiều.
Khoái thứ hai là coi đèn xanh đèn đỏ như... "ne pas".
Khoái thứ ba là đi ngược chiều, ngay cả trên xa lộ. Tôi bắt gặp được hai lần có xe chạy ngược chiều trên đoạn đường "cao tốc" từ Nội Bài về Hà Nội, được trang trí như là một tủ kính bày hàng nhằm loè du khách đến thăm Hà Nội.
Khoái thứ hai là coi đèn xanh đèn đỏ như... "ne pas".
Khoái thứ ba là đi ngược chiều, ngay cả trên xa lộ. Tôi bắt gặp được hai lần có xe chạy ngược chiều trên đoạn đường "cao tốc" từ Nội Bài về Hà Nội, được trang trí như là một tủ kính bày hàng nhằm loè du khách đến thăm Hà Nội.
Khoái thứ tư là được "vô tư" chen
lấn, không có ưu tiên phải trái, mạnh ai nấy đi và được bóp còi thoải
mái...Ngay cả con tàu "Thống Nhất" xuyên Việt cũng chen chúc qua các
phố phường chật hẹp như chốn không người, giữa những chùm giây điện dọc ngang
chằng chịt.
Trên đường đi Angkor Wat phải ghé qua Saigon,
khi tôi bước xuống hôtel, mọi người la ó nhìn tôi như nhìn người từ hành tinh
khác, không phải vì tôi ăn mặc kỳ dị mà chỉ vì tôi mang theo trên người cái máy
chụp hình và cái điện thoại di động. Ở tuổi tôi đi trên đường phố Saigon mà mang
những thứ đó là một cách tự sát.
Tôn Đản là của vua quan,
Nhà Thờ là của bầy tôi nịnh thần,
Vỉa hè là của nhân dân anh hùng...
Tuy thích châm biếm nhưng con người sống dưới chế độ cộng sản lại mất đi cái tính khôi hài dí dỏm của người Việt, nếu có khôi hài thì lại rẻ tiền, kiểu Hoài Linh, mà có khi còn thô tục nữa. Ở Hà Nội, ngay bên cạnh Trung Tâm Văn Hoá Ca Múa Âu Cơ trên đường Huỳnh Thúc Khang (lớn thứ hai sau Nhà Hát Lớn) thì lại có nhà hàng ăn với bảng hiệu đồ sộ "Chim To Dần" để cho các bà đi ngang phải đỏ mặt.
Về Việt Nam mà không ăn phở là một thiếu sót, tuy nhiên tôi cũng chưa tìm được cái hương vị tuyệt vời như ở Berlin hay ở Sydney. Sau mấy ngày lục lạo, tôi may mắn được bước vào một tiệm phở lịch sử đã đứng vững từ nửa thế kỷ nay và còn in dấu vết trong lòng người Hà Nội để nhớ lại thời kỳ bao cấp kinh hoàng.
Sở dĩ bà chủ tiệm phở Nam Ngư làm ăn được là vì đã lợi dụng sự sơ hở của chế độ. Lúc đó nhà nước quản lý ba loại súc vật: trâu (để đi cày), bò (nói là bị Mỹ dội bom chết), heo (thì để làm nghĩa vụ đóng thuế), chỉ có gà là thoát khỏi tầm tay nhà nước, nên bỏ một miếng thịt gà vào tô phở không thể coi là hành động chống đối.
Tuy làm ăn khắm khá nhưng bà chủ Nam Ngư vẫn
giữ nguyên trạng tiệm phở từ hồi mới mở tới nay, với những cái bàn con và những
chiếc ghế nhựa thấp lè tè, kể cả cái thau nước rửa bát bên lề đường, như để
nhắc nhở người dân Hà nội rằng dấu vết của thời bao cấp đang còn đó.
Trong khi bao cấp kinh tế chỉ liên quan tới thể xác, thì ngày nay bao cấp chính trị nguy hiểm hơn, lại bao gồm luôn cả tinh thần. Khốn nạn thay cho người dân Việt, không biết còn phải chịu đựng cho tới bao giờ.
Trong khi bao cấp kinh tế chỉ liên quan tới thể xác, thì ngày nay bao cấp chính trị nguy hiểm hơn, lại bao gồm luôn cả tinh thần. Khốn nạn thay cho người dân Việt, không biết còn phải chịu đựng cho tới bao giờ.
.
304Đen
- Llttm
No comments:
Post a Comment