Chuyện Tuổi
Xưa - Con Agnès
Cha tui nấu ăn cho ông tỉnh trưởng người Pháp - còn gọi là ông "Sứ
Tây". Làng xóm phong tước hiệu cho cha tui là "Bếp
Sứ". Tui hỉnh mũi dữ lắm. Khoan nói đến chiện gì khá , chỉ
nội cái dziệc mua thịt ngoài chợ thôi
cũng đủ thấy "uy quyền" của "Bếp Sứ". Sáng nào cũng
dzậy, những người bán thịt đã có lệnh của quan là không được bán
cho ai trước mà phải chờ " Bếp Sứ " lựa mua đầu tiên, tới
"Bếp Cò Chánh", "Bếp Cò Phó", "Bếp Kho Bạc"v.v...
Chừng nào tất cả bếp của quan Tây mua xong rồi mới được bán cho
dân. Thịt ngon đã bán giá rẻ cho mấy quan hết rồi, còn lại thịt
bầy nhầy bạng nhạng, xương xẩu "hầm bà lằng" thì bán giá mắc
cho dân để gỡ lại cả
dzốn lẫn lời !
Nhờ là con của
"Bếp Sứ" nên tui mới quen thân được dứ mấy đứa con Ông Sứ Tây là
chị em con Agnès và thằng nhóc tì Paul. Đây cũng là điều làm
cho lỗ mũi tui nở to thêm nữa.
Tui có được nhiều dịp nói tiếng Tây
dứ chị em nó lắm. Dù tui nói rặt tiếng "bồi" mà
tụi nó cũng hiểu và cười sặc sụa. Chỉ gặp tui một lần là chị em con
Agnès đã "kết" tui thiếu điều muốn sặc sừ luôn. Rồi
càng ngày tụi nó càng kết đậm hơn nữa. Dzì nếu hổng có tui thì suốt đời chị em
nó cũng hổng biết trái chòi-mòi, trái chà-rang, trái giũ giẽ hay trái bứa
là gì nữa. Trái rừng nào mà tui đem dzìa tụi nó đều khoái tỉ
hết. Trừ trái bứa là chị em nó chỉ ăn một lần rồi tởn tới
già dzì bị Maman biết được giũa te tua luôn. Con Agnès cho
biết là trái nào ăn vụng rồi chùi mép cũng được, còn trái bứa thì dính răng
vàng khè mà tụi nó đâu có ngờ. Lỗi là tại tui sơ ý quên dặn
trước. Mà ai biểu tụi nó hổng phải là dân Kontum
chi. Hổng biết thì ráng mà chịu.
Lễ hội
gì mà có Ông Bà Sứ tham dự đều dẫn chị em nó theo. Con Agnès luôn
luôn xin Maman của nó cho thằng Pierre đi chung. Tui cho
biết tên thánh của tui là Pierre để chị em nó
dễ gọi chớ sức mấy mà tụi nó kêu tên Sự cho được. Ngay chính
tui đây mà muốn kêu tên tộc của mình cho khỏi quên cũng còn thấy khó
nặc huống chi là chị em con đầm Agnès.
Bản tánh tui thích
leo trèo. Tui cũng đã té cây vài lần nhưng chỉ treo toòng teng
rồi tuột xuống mà thôi. Lần này tui té bị thương nặng. Da đầu gối trái của
tui rách tét bét, lòi xương
bánh chè ra luôn, máu chảy đầm đìa.
Thằng Phục phải xé áo thun của nó, bó rịt đầu gối tui lại để cầm máu. Rồi
nó cõng tui trên lưng mà chạy đến dinh Ông Sứ tìm cha tui. Từ Giọt Nước chỉ
cần băng qua đường Nguyễn Huệ là tới. Con đầm Agnès chạy ra mở cổng, nó
thấy tui bị thương nặng như dzậy nó hét lên: "Oh! Mon Dieu!" rồi
bật khóc nức nở. Thằng em nó cũng dzừa chạy tới, con Agnès liền xổ một
tràng tiếng Tây thứ thiệt chớ hổng phải thứ tiếng bồi tui thường nói đâu nghen.
Thằng Paul chạy trở dzô nhà. Lúc nầy
thằng Phục từ từ hạ thấp xuống, nhẹ nhàng để tui ngồi trên bãi cỏ. Tui
chống tay định nằm ngửa ra phía sau. Con Agnès vội vàng quỳ xuống, một tay đỡ
đầu, một tay vuốt tóc trên trán tui. Bàn tay nó sao êm ái lạ
thường. Nó cúi xuống thật gần, những giọt nước mắt của nó rơi ấm mặt
tui. Tui nhắm mắt lại, tai tui nghe tiếng con Agnès thì
thầm:"Oh! Pierre. Oh! Pierre." Tui chưa bao giờ có được cảm giác
yên lành như thế nầy. Tui hổng biết diễn tả thế nào cho đúng. Cảm
giác vừa được sự vỗ về của người mẹ, vừa được sự an ủi của người
chị cùng sự vuốt ve trìu mến của người bạn gái bé nhỏ thiết tha.
Tui thấy thương con Agnès quá. Xe chở tui dzô nhà thương để may
lại cái đầu gối rách beng của tui.Đến nay cái thẹo vẫn còn là dấu tích kỷ
niệm của một thời khó quên.
"Cách tó rui dzê"- quatorze juillet 14/7- là ngày
quốc khánh của Pháp. Người mình nói trại ra là ngày lễ "bắt chó
đua dê." Ngày nầy có nhiều trò dzui được tổ chức tại sân vận động của
tỉnh. Người lớn nghỉ làm, con nít nghỉ học để dzui chơi mừng lễ. Ông bà Sứ và
các quan Tây đều đến dự. Đương nhiên phải có chị em con Agnès. Còn tui thì
theo "ăn ké" là cái chắc. Được ngồi trên khán đài nhưng tui hổng
thích, chỉ muốn xuống nhập bọn dứ mấy đứa bạn thì dzui dzẻ hơn. Con Agnès
biết ý nên nắm áo giữ tui lại. Nó nhìn tui lắc đầu nói nhỏ: "Non Pierre.
Non! " Tui hỏi : "Pourquoi"? Con Agnès hổng thèm trả
lời , nó háy tui một cái rồi quay mặt chỗ khác. Tui nghĩ thầm:
"Đầm nhí mà cũng bày đặt giận hờn." Nghĩ thì nghĩ dzậy chớ tui
đâu nỡ bỏ nó mà đi dzì sợ nó khóc. Con Agnès mít ướt lắm.
Cây trụ được chôn xuống đất rồi bôi dầu
cho trơn. Người ta giành nhau leo lên lấy giải thưởng trên ngọn.
Trèo lên tuột xuống hoài. Té chồng lên nhau thấy mà thảm. Có người leo
lên đã gần tới đích rồi bị tuột xuống trúng đầu người phía dưới, người nầy
cũng tuột xuống trúng đầu người bên dưới nữa và cứ như dzậy cho tới đất
luôn. Lần nào cũng có người ôm bụng dưới mà rên rỉ dzì
"thằng lớn làm, thằng nhỏ chịu" !
Cái sà
ngang được gác qua hai cây cột giống như cái"gôn" đá banh nhưng cao
hơn. Trên sà ngang treo lủng lẳng nhiều cái nồi đất đựng bánh kẹo, xà
bông cục và đồ chơi xen kẽ dứ những cái nồi đựng tro than. Bốn hoặc
năm người có thể tham dự trò chơi cùng một lượt. Mỗi người được phát
một thanh gỗ to bằng cổ chân, bị bịt mắt lại và quay mòng mòng mấy
vòng rồi đứng thủ thế chờ. Chưa chi mà người nào cũng nghiêng qua
ngã lại rồi. Khi nghe tiếng "a lê húp" thì bắt đầu đập cho
bể mấy cái nồi đất đã treo. Bánh kẹo, đồ vật,tro bụi và mảnh sành rơi
trúng đầu trúng cổ người đập. Mở băng bịt mắt ra thì dưới cỏ chỉ còn
lại mảnh vụn của nồl đất bể, kẹo bánh thì đám "xây lỗ cố" con
nít đã dọn sạch sẽ rồi.
Con heo
được "xối mỡ" rồi thả cho nó chạy. Người nào bắt được con
heo thì lấy luôn. Nhưng cũng "chằn ăn trăn quấn" lắm. Người ta
nhào ra giành giựt, lôi kéo nhau té lăn cù đèo. Người nào mặt mày cũng lấm lem,
quần áo tả tơi.
Một cái
vũng tròn lớn bằng cái nong được đào sẵn, đổ nước vào trộn đất bùn
cho nhão. Các ông Tây bà Đầm ném từng nắm bạc cắc vào
cái vũng sình đó. Nhiều người nhào dzô
xô đẩy chen lấn nhau để mò
tìm bạc cắc. Người nào người nấy giống như trâu lăn lấm.
Trò chơi
nào cũng khiến người coi cười nôn ruột. Tui phàn nàn không được
chơi dzì còn nhỏ tuổi. Mấy anh lớn nói đó là cách tụi Tây
nó sĩ nhục dân mình mà mầy ham cái nỗi gì. Lớn lên tui mới
hiểu được ý của mấy ảnh.
Buổi chiều
có đua ngựa dưới "dzườn dzông"- Là cái thung lũng cạnh bờ sông
gần cầu Dakbla được trồng nhiều cây mã tiền to lớn có nhiều gai nhọn bao
quanh thân cây từ dưới
gốc lên tới ngọn. Người mình gọi loại
cây nầy là "vông tây." Thứ gì to lớn là Tây, cái gì lạ
mắt cũng Tây. Như bánh tây (bánh mì), rượu tây, đậu tây, đu đủ tây, giày
tây, quần tây... Xe đạp thì hổng có xe tây, chỉ xe đầm thôi. Bóp
đầm, dù đầm, áo đầm, kim đầm...Tây đầm ôm nhau xà nẹo mà nhảy thì cũng gọi
là nhảy đầm chớ ai mà gọi nhảy tây. Còn bà xơ thì lại là ma xơ tây chớ
làm gì có ma xơ đầm. Có điều hơi ngồ ngộ nầy mà hổng biết có ai để ý
hôn ? Tui luôn luôn thấy mấy bà Đầm thì dắt chó Bẹc Giê đực, còn mấy ông
Tây thì dẫn chó cái!
Người
ta cắm cọc giăng dây thành một cái vòng tròn lớn quanh thung lũng.
Ngựa đua bắt buộc phải chạy theo phía ngoài hàng rào đó. Năm nào con
bạch mã của Bác Tế cũng
chiếm giải nhứt. Con ngựa nầy hổng cần
nài điều khiển hay thúc giục gì cả. Nó biết lúc nào nên chạy chậm để giữ
sức, lúc nào cần phải chạy nước rút để vượt thắng. Tất cả các nài ngựa đều
là người Thượng. Họ cưỡi ngựa hổng cần yên rất giỏi. Còn người Kinh thì
"em hổng dám đâu." Cưỡi ngựa thường là ngồi, nhưng trong cuộc
đua nài ngựa phải nằm rạp trên lưng ngựa cho nó chạy khỏi bị cản gió.
Kỳ
đua nầy con bạch mã của Bác Tế thấy kém thế ngay từ lúc khởi đầu. Nó
lồng lên, ráng hết sức mà hổng thể nào qua mặt được con hắc mã "em
mới." Nó phải chịu lép nửa ngựa mà chạy kè kè bên hông con hắc
mã để chờ dịp tốt. Rồi một chiện lạ đời đột ngột xảy ra. Người ta
thấy con hắc mã dẫn đầu tự nhiên lòi ra hai cái đuôi. Một cái đuôi "chính
thức" phía
sau đã đành. Lại còn thêm cái đuôi
"ăn theo" ngang xương mọc ra từ lưng ngựa! Nhìn kỹ lại là cái
khố của chú nài đang tung bay phất phới trong gió chiều. Con bạch mã Bác
Tế thiệt là tinh ranh. Thấy thời cơ đã tới, nó liền nghĩ ra
cách ăn gian, bèn chạy xáp gần hông con hắc mã hơn nữa rồi thình
lình ngoạm chặt cái khố của chú nài đáng thương kia, chạy chậm lại rồi từ
từ đi nước kiệu. Bắt buộc chú nài trên lưng hắc mã phải ghì cương ngựa lại
rồi nhảy xuống đất, nếu không sẽ tuột khố! Chú nài hắc mã dùng hai
tay níu cái khố, hai chân chạy lúp xúp theo sau con bạch mã. Trước
cảnh tượng lạ lùng , hi hữu như dzậy ai mà hổng cười bể bụng thì kẻ
ấy mới là dị thường đó.
Nước đã ngập xắp xắp mặt cầu Di Linh - Đàlạt. Ván cầu
chỉ còn thấy lờ mờ dưới làn nước chảy. Ông Sứ Tây liều lĩnh, một mình tự
lái xe qua cầu. Ông chạy rất cẩn thận, chậm
chạp bò qua. Bỗng nhiên bánh xe
trước sụp xuống làm chiếc xe nghiêng qua một bên. Sẵn đà nước chảy
mạnh cuốn trôi chiếc xe ra khỏi cầu, rớt xuống sông rồi chìm lĩm, mang theo
Papacủa chị em con Agnès!!!
Ngày biệt ly rồi cũng phải đến. Chị em con Agnès theo Maman
dzìa Pháp. Tui bùi ngùi tiễn con Agnès ra xe. Nó cầm tay tui bịn
rịn hỏi: "Khi lớn lên toa có qua Paris tìm moa
không?" Tui nghẹn ngào trả
lời nó bằng âm thanh tàn lụn: "Peut-être" !
Xe
lăn bánh, con Agnès nhoài người ra hoảng hốt:
-Adieu Pierre!
Tui
vẫy tay chào mà hổng nói được lời nào. Tui biết nó đang khóc muồi mẫn cũng
như tui hổng thể nào cầm được nước mắt đang dâng trào. Và đó là lần giả
biệt đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng của hai đứa.
Mãi tới khi xe chở con Agnès khuất xa rồi tui mới trực nhớ đến một
câu mà tui định nói dứ nó lúc giã từ. Bây giờ thì chậm mất rồi. Tui
đành phải lẩm bẩm một mình nhưng tin chắc rằng "tiên
cô" Agnès của tui có thể nghe được.
-
Bon voyage! Agnès. Lên đường bình an!
(nvs.Vu
Thuy)
No comments:
Post a Comment