Mao Trạch Đông Ngàn Năm Công Tội
Đọc để hiểu rõ, bộ mặt thật ghê gớm của cái gọi là “cộng sản
ưu việt” và “thiên đường xã hội chủ nghĩa” của Mao Trạch Đông mà bọn cộng sản
Việt Nam đã một thời và vẫn còn tôn thờ cho tới ngày nay.
Cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội"
do nhà xuất bản Thư Tác Phường ấn hành,
ra mắt tại Hồng Công tháng 7-2007 và tới bạn tháng 6-2008, là một trong những
cuốn sách đang được dư luận Trung Quốc hết sức quan tâm, với những luồng ý kiến
nhận xét trái ngược nhau, từ hoan nghênh đến bất đồng, thậm chí phản đối gay gắt.
Tác gia Tân Tử Lăng nguyên là cán bộ nghiên cứu và giảng dạy
tại Học viện quân sự cấp cao, Đại học Quân chính, Đại học Quốc phòng Trung Quốc.
Ông nhập ngũ năm 1950, từng tham gia các phong trào chính trị do Mao phát động,
về hưu năm 1994 với quân hàm Đại tá.
Chương 18
Địa ngục trần gian
Trong 4 năm sau khi
Mao tuyên bố thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng (tháng
9-1959) Trung Quốc đã xảy ra thảm kịch làm 37,55 triệu người chết đói (số liệu
chính thức được giải mật theo quyết định của Bộ chính trị ĐCSTQ tháng 9-2005),
nhiều hơn cả số người chết trong Chiến tranh thế giới II. Đây là cuộc thử nghiệm
chủ nghĩa xã hội không tưởng thời gian dài nhất, quy mô lớn nhât, thiệt hại thảm
khốc nhất trong lịch sử loài người. Thiên đường cộng sản chủ nghĩa do chính Mao
thiết kế và lãnh đạo xây dựng đã biến thành địa ngục trần gian.
Đại tiến vọt thực tế gồm hai
lần. Lần thứ nhất diễn ra trước Hội nghị Lư Sơn 1959, cuối măm 1958 đã phát
hiện có vấn đề nghiêm trọng. Sau Hội nghị Lư Sơn để chứng minh ba ngọn cờ hồng
đúng đắn, Mao phát động phong trào chống hữu khuynh trong toàn đảng rồi dấy lên
cao trào Đại tiến vọt 2 trong cả nước lần “tiến vọt” này kéo dài hơn một năm từ
nửa cuối 1959 tới cuối năm 1960, gây tôi ác lớn nhất.
Ngày 3-9-1958, Mao tuyên bố: “Sản
lượng lương thực năm nay có thể tăng xấp xỉ gấp hai lần năm ngoái, từ 185 triệu
tấn lên khoảng 370 triệu tấn nếu năm 1959 lại tăng gấp hai lần năm nay, lên 750
triệu tấn”. Tin lên ra cả thế giới đều biết. Sau vụ thu hoạch, đột nhiên
các tỉnh báo cáo không nộp đủ lương thực như dự định. Mao sốt ruột, bởi đây là
việc thật bẽ mặt. Ông ta đích thân viết thông tri gửi toàn quốc, nhận định “vấn
đề phổ biến trong cả nước là các công xã, đội trưởng sản xuất che giấu sản
lượng, chia nhau lương thực, tình hình nghiêm trọng, phải giải quyết ngay”, hơn
nữa, “phải tiến hành một đợt giáo dục kiên quyết mới giải quyết được”. Song
“kiên quyết” như thế nào Mao không nói rõ, để cho cấp dưới đầy đủ không gian
tha hồ tưởng tượng, phát huy. “Chống che giấu sản lượng và chia nhau lương
thực” bằng thủ đoạn “giáo dục kiên quyết moi cả khẩu phần lương thực của nông
dân là nguyên nhân chủ yếu gây chếl đói trên qui mô lớn.
Tỉnh Hà Nam vụ thu 1958 có tới
50% mùa màng bị hư hỏng ngoái đồng (do lao động khỏe bị huy động đi làm gang
thép). Năm 1959 sản lượng lương thực giảm, chỉ có 9,75 triệu tấn, nhưng các nơi
hư báo lên tới 22,5 triệu tấn. Bí thư tỉnh uỷ Ngô Chi Phó lấy đó làm cơ số giao
chỉ tiêu cưỡng bức thu mua lương thực, cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ bị coi
là “Bành Đức Hoài con”. Chuyên khu Tín Dương thực sản chỉ có 2 triệu tấn, Bí
thư Khu uỷ Lộ Hiến Văn vống lên 4,15 triệu tấn, tỉnh giao chi tiết thu mua 48
vạn tấn đã là quá cao, Khu uỷ xung phong nhận 52 vạn tấn. Khẩu phần lương thực,
hạt giống và thức ăn gia súc của nông dân bị cướp đi rất nhiều, bình quân đầu
người chỉ còn hơn 50 kg, đủ ăn trong 4 tháng, một số huyện thậm chí không đủ 3
tháng. Chưa đến cuối năm 1959 bếp ăn tập thể của nhiều công xã không còn đỏ lửa
và hết lương thực.
Để quán triệt tinh thần “kiên
quyết giáo dục” của Mao Trạch Đông, Khu uỷ đã tổ chức cuộc họp 6.000 người ở
huyện Hoàng Xuyên, lôi hơn 60 người ra đấu tố, lại lôi thêm 4 người từ nhà tù
ra xét xử công khai. Những nông dân đến dự đều gầy gò, vàng vọt, khoảng 40% mắc
bệnh phù thũng, một người chết đói tại chỗ, 19 người chết trên đường về nhà.
Ngày 8-11-1959, cán bộ Đội sản
xuất Lê Thụ, Công xã Hoài Điếm, huyện Quang Sơn, nghi ngờ xã viên Từ Phó Chính
có lương thực mà không giao nộp đã cho dân quân treo Từ lên xà nhà, đánh đập dã
man, 6 ngày sau tử vong. 6 người trong gia đình Từ sau đó đều chết đói. Xã viên
Yên Gia Tâm do không nộp đủ lương thực, bị đánh đập tàn bạo, 5 ngày sau qua
đời. Vợ Yên là Hoàng Tú Anh rang lúa mạch cho con ăn, bị trói lại đưa ra đấu,
bị dội nước lạnh giữa ngày đông giá rét và giày vò cho đến chết. Còn lại 5
người con, chỉ có đứa lớn 14 tuổi bỏ chạy đến nhà họ hàng thoát thân, còn lại 4
đứa nhỏ đều chết đói. Biết bao nông dân bị tan cửa nát nhà vì cuộc “giáo dục
kiên quyết” này!
Mùa xuân 1960, nạn đói tràn
lan, có làng 80 ngày người dân không được một hạt lương thực vào bụng. Nhiều
người chết đói hoặc bỏ đi nơi khác kiếm ăn. Vậy mà Bí thư Khu uỷ Lộ Hiến Văn
vẫn lên giọng: “Không phải thiếu lương thực, mà lương thực rất nhiều, 90% là
vấn đề tư tưởng”. Ông ta chỉ thị cho cán bộ cơ sở và dân quân phong toả mọi nẻo
đường, không cho dân chúng bỏ đi nơi khác, chỉ thị cho các cơ quan, nhà máy, xí
nghiệp, trường học ở các thị trấn không được đón tiếp người từ vùng nông thôn
lên. Bưu cục Tín Dương đã giữ lại trên một vạn lá thư của cán bộ và quần chúng
xin cứu đói.
Theo báo cáo của Khu uỷ gửi
Trung ương sau này, chỉ riêng đông xuân 1959-1960, Tín Dương có hơn 1 triệu
người chết đói, dân số giảm mạnh, đồng ruộng hoang vu, nhiều nhà chết không còn
một ai. Đội sản xuất Ngô Viên Tử thuộc Công xã Thập Lý huyện Quang Sơn có 120
nhân khẩu, thì chỉ trong tháng 10 và tháng 11 năm 1959 đã có 72 người chết đói.
Danh sách 72 người này năm 2004 đã được khắc trên tấm bia để nhấc nhở đời sau.
Sự kiện Tín Dương bị phơi trần,
để bảo vệ mình, Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hà Nam Ngô Chi Phố hạ lệnh bắt Lộ Hiến
Văn cùng 16 Bí thư Huyện uỷ và Huyện trưởng thuộc Khu Tín Dương, cách chức 982
cán bộ cấp dưới, bắt và đưa ra xét xử 275 người, kết án tử hình Dương Thủ Tích,
Bí thư Huyện uỷ Cố Sử và Mã Long Sơn, Bí thư Huyện uỷ Quang Sơn.
Sự kiện trên làm chấn động Bắc
Kinh. Bí thư Ban Kiểm tra kỷ luật trung ương Đổng Tất Vũ cử hai vụ trưởng về
điều tra tại chỗ. Càng điều tra, càng phát hiện nhiều vấn đề nghiêm trọng.
Tháng 5-1960, Đổng Tất Vũ chuyển báo cáo điều tra lên Thường vụ Bộ Chính trị,
Mao xem xong, định hướng đây là sự kiện phản cách mạng, do địa chủ, phú nông
lọt lưới chui vào đội ngũ cách mạng, phá hoại quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất. Thế là Mao rũ sạch trách nhiệm thủ phạm đầu sỏ làm cho mấy chục triệu
người chết đói, và một lần nữa trở thành cứu tinh của nhân dân.
Số người chết đói ở Trung Quốc
trong thời gian 1959- 1962 là 5,11% dân số cả nước. Sáu tỉnh nặng nhất là An
Huy 18,37%, Tứ Xuyên 13,07%, Quý Châu 10,23%, Hồ Nam 6,81%, Cam Túc 6,45%, Hà
Nam 6,12%. Sáu tỉnh bị nhẹ nhất là Hà Bắc (gồm cả Bắc Kinh, Thiên Tân) 11%
Giang Tây 1,06%, Thiểm Tây 1,02%, Cát Lâm 0,94%, Chiết Giang 0,55%, Sơn Tây
0,37%. Sự chênh lệch này liên quan rất lớn tới tố chất của các Bí thư thứ nhất
Tỉnh uỷ: nơi nào càng bám sát “đường lối cách mạng” của Mao, thì tỉ lệ người
chết đói càng nhiều.
Nạn ăn thịt người đã diễn ra ở
Tứ Xuyên và nhiều nơi khác: khi chôn người chết chỉ vùi nông, tối đến bới lên
xẻo lấy thịt ăn, hoặc tang chủ đã lóc thịt thân nhân trước khi mai táng. Tàn
nhẫn hơn là nạn ăn thịt trẻ con, điển hình là chuyện xảy ra ở Đội sản xuất số
1, Đại đội 5, Công xã Đông Dương, lnyện Sùng Khánh, Khu Ôn Giang, tỉnh Tứ
Xuyên.
Theo lời Trịnh Đại Quân, nguyên
cán bộ Ban công tác nông thôn huyện Sùng Khánh. Đội sản xuất trên có 82 hộ, 491
nhân khẩu, chỉ trong một năm từ tháng 12-1959 đến tháng II-1960, đã có 48 bé
gái 7 tuổi trở xuống bị người lớn làm thịt, chiếm 90% số bé gái cùng độ tuổi ở
nơi này. 83% số gia đình ở đội này từng ăn thịt người. Chuyện đau lòng đó diễn
ra trong bối cảnh lương thực hết sạch, mọi người từng nhiều ngày phải ăn giun
dế, côn trùng, lá cây, vỏ cây, cỏ dại, và cả đất thó. Kế toán Vương Giải Phóng
là người đầu tiên phát hiện vụ ăn thịt trẻ con. Hồi đó, tuy nhà ăn tập thể thực
tế đã ngừng hoạt động vì không còn lương thực nữa, nhưng lệnh cấm các gia đình
nấu nướng vẫn còn hiệu lực, bếp nhà ai nổi lửa là phạm pháp.
Đêm ấy, đến lượt Vương cùng hai
người khác đi tuần. Các mái nhà phủ trắng tuyệt đầu mùa sáng hẳn lên khi vầng
trăng nhô ra khỏi đám mây. Nhóm tuần tra phát hiện một dải khói mỏng toả ra từ
mái nhà bần nông Mạc Nhị Oa. Họ chia nhau bao vây vu hồi, rồi đồng loạt bấm đèn
pin nhảy vào nhà, nổ một phát súng cảnh cáo: tất cả ngồi im! Đèn dầu được châm
lên, nhà Nhị Oa có 8 nhân khẩu, đã chết đói 2, còn lại 6 người, nhưng lúc này
chỉ thấy có 5. Thành viên thứ 6 là bé gái Thụ Tài 3 tuổi vừa bị giết hại, xẻ ra
lấy thịt, đang luộc trong nồi. Trong lúc tổ tuần tra tìm cây trói can phạm, Nhị
Oa và mấy đứa con lao vào cướp thịt Thụ Tài, ăn ngấu nghiến. Khi cả 5 người lớn
bé bị trói thành một xâu đưa về trụ sở Đại đội sản xuất, trời đã sáng bạch. Cán
bộ lãnh đạo địa phương sau khi nghiên cứu cân nhắc, đã quyết định ỉm vụ này đi,
vì sợ bị kỷ luật. Sau một ngày bị giam giữ, cả nhà Mạc Nhị Oa lại được tha. Dân
làng bàn tán, cho rằng chính phủ ngầm cho phép ăn thịt trẻ con. Thế là nạn ăn
thịt trẻ con lan tràn, do “trọng nam khinh nữ”, họ chỉ ăn bé gái, giữ lại bé
trai.
Không những ăn thịt, mà còn
nghiền vụn xương đầu và tay chân ăn cho bằng hết. Kẻ nhẫn tâm thì làm thịt con
ngay tại nhà mình. Kẻ mềm yếu hơn thì “gạt nước mắt đánh đổi với hàng xóm”:
trao con mình cho người khác ăn, mang con người khác về làm thịt. Một số xã
viên “nhìn xa trông rộng”, đã đi bắt cóc trẻ con ở vùng lân cận về ăn, hoặc gài
bẫy trẻ con như bẫy thú, kể cả việc sử dụng một loại thuốc nổ xưa kia dùng để
bẫy sói: trẻ nhỏ nhặt được chiếc “kẹo” mùi vị thơm ngon, cho vào miệng nhai
liền phát nổ, đầu mặt tan tành, khi gia đình hay tin tìm đến, thì chỉ còn lại
vũng máu.
Trong ba năm đói kém ấy, tình
hình xã hội rối ren nghiêm trọng. Tháng 12-1960, Chuyên khu Vô Hồ tỉnh An Huy
xảy ra 180 vụ cướp lương thực. Nhiều vụ khác xảy ra ở Cam Túc, Quảng Đông, Quí
Châu, Tứ Xuyên. Nhiều vụ bạo động qui mô lớn, các hoạt động phiến loạn vũ trang
nổ ra ở Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, An Huy, Hồ Bắc, các chính
đảng hoạt động bí mật mọc lên như nấm, mãi đến năm 1970 mới dẹp xong.
Số người chết đói trong Đại
tiến vọt không bởi thiên tai, mà do “nhân hoạ”, “Mao hoạ”, quyết sách sai lầm.
Cuối tháng 6-1959, dự trữ lương thực trong cả nước 17 triệu tấn, đủ đáp ứng nhu
cầu thành thị trong một năm. Nhưng trong tình hình lương thực giảm 30 triệu
tấn, Mao lại quyết định xuất khẩu 4,19 triệu tấn để đổi lấy vàng và USD, bầng
24% dự trữ lương thực.
Nếu Quốc
hội Trung Quốc thật sự có quyền làm chủ, không chấp nhận chỉ tiêu tăng sản
lượng gang thép lên gấp hai lần, không thông qua thể chế công xã hoá, hoặc có
quyền lực kiên quyết ngăn chặn cuộc Đại tiến vọt hại nước hại dân, thì có thể
tránh hoặc giảm nhẹ tai hoạ này. Đáng tiếc là Kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khoá 2 họp
tại Bắc Kinh từ 30-3 đến 8-4-1960, 2.000 đại biểu đều phụng mệnh “ba không”:
không nói đến nhiệm vụ trưng mua lương thực quá nặng; không nói nông thôn thiếu
lương thực; không nói nhiều người chết đói, mà chỉ được phép nói về “tình hình
tốt đẹp” ở địa phương mình, giơ tay thông qua kế hoạch kinh tế Đại tiến vọt hơn
nữa.
Chương 19
Con gái ba đời bần nông
giương biểu ngữ “Đả đảo Mao Trạch Đông” tại Trung Nam Hải
Từ 10 đến 18-6-1960,
Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng họp tại Thượng Hải, chủ yếu thảo luận tình hình
quốc tế và kế hoạch bổ sung cho 3 năm cuối (1960-1962) của Kế hoạch 5 năm thứ
hai. Chiều 18, Mao tự phê bình trước hội nghị. Đây là lần đầu tiên Mao nhận sai
lầm sau thất bại của cuộc “Đại tiến vọt” nhưng rất hời hợt, cố làm nhẹ mức độ
sai lầm, tổn thất, lại phê bình cấp dưới “không hiểu lập trường, quan điểm,
phương pháp mác xít”. Ông nhấn mạnh “đường lối chung là đúng đắn, công tác thực
tế cơ bản làm tốt”. Hội nghị kết thúc, ngày 3-7 Mao đến khu nghỉ mát Bắc Đới
Hà, tiếp tục suy nghĩ làm thế nào vượt qua khó khăn mà vẫn giữ được thể diện.
Giữa lúc đó, một sự kiện kinh
thiên động địa xảy ra ở Trung Nam Hải, khiến Mao mất hết thể diện.
Một buổi trưa, dưới chân tường
cửa bắc Trung Nam Hải trên đường Văn Tân, nơi có nhiều tuyến xe công cộng qua
lại, xuất hiện một nữ thanh niên mặc bộ đồ xanh công nhân, hai tay giơ cao hai
tấm bìa cứng, một tấm viết: “Tiêu diệt công xã nhân dân!” Tấm kia viết: “Đả đảo
Mao Trạch Đông! Bành Đức Hoài muôn năm!” Cô gái bị cảnh sát mặc thường phục túm
cổ xách vào bên trong cửa bắc, khoá còng số 8. Tại đây, cô khai tên là Lưu Quế
Dương, người Hồ Nam, công nhân nhà máy nhiệt điện Lý Ngư Giang, tổ tông ba đời
bần cố nông, bản thân là đoàn viên Đoàn thanh niên cộng sản. Bố mẹ mất sớm, cô
được chú thím nuôi khôn lớn, đến năm 1956 vào học việc tải nhà máy điện, 3 năm
liền không về thăm nhà. Gần đây nghe tin thôn quê xảy ra nạn đói, cô về thăm
chú thím và 4 em, cả nhà 6 người đều đã chết đói. Dân làng phải ăn rau dại, vỏ
cây, đất thó. Cả thôn hơn 30 người chết đói, và nhiều người khác đang ngắc
ngoải. Cô nói: “Trở về nhà máy, loa phát thanh suốt ngày ra rả ba ngọn cờ hồng,
tình hình tốt đẹp. Tôi chẳng dám nói gì hết, hễ nói liền bị qui là phản cách
mạng. Tôi biết rõ kẻ nào là hung thủ tổ chức Đại tiến vọt, công xã nhân dân,
nhà ăn tập thể, làm nhiều người chết đói. Là hậu duệ ba đời bần cố nông, đoàn
viên thanh niên, nữ công nhân điện, tôi không thông. Tôi lên Bắc Kinh hô khẩu
hiệu, muốn đánh đổ công xã nhân dân, đánh đổ Mao Chủ tịch? Tôi muốn hô to: Bành
Đức Hoài muôn năm, muôn muôn năm!” Phòng trực ban cửa bắc gửi gấp khẩu cung của
Lưu Quế Dương lên Bắc Đới Hà, nơi đang diễn ra Hội nghị công tác Trung ương.
Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình đọc xong chuyển ngay Lưu Thiếu Kỳ. Lưu tái mặt, cho
đăng vào tin ngắn hàng ngày của hội nghị. Thư ký thường trực Bộ Chính trị Điền
Gia Anh không chuyển bản tin này cho Mao đang lâm bệnh, vì sợ làm như vậy khác
nào “tát vào mặt ông già”. Điền tin chắc rồi sẽ có người mang cho Mao xem kèm
theo mật tấu Lưu cho in khẩu cung trên vào bản tin ngắn là có dụng ý xấu. Cả
nửa đầu năm 1960, Mao vẫn kêu gọi tiếp tục Đại tiến vọt, phấn đấu cho 18 triệu
tấn thép, 300 triệu tấn lương thực. Đến trước hội nghị này, Mao môi thừa nhận
cả nước đã xảy ra nạn đói. Hành động của cô gái Hồ Nam kia khiến Mao hoàn toàn
tỉnh ngộ.
Một chiếc lá rụng biết mùa thu
đến, Mao hiểu uy tín của mình trong toàn đảng, toàn dân đã xuống tới đáy vực.
Mao thường ngồi một mình im lặng. Sau khi suy nghĩ kỹ, Mao xin nghỉ ốm, nhiều
lần uỷ thác Điền Gia Anh chuyển ý kiến tới Bộ Chính trị: trong thời gian ông ta
dưỡng bệnh, Lưu Thiếu Kỳ giữ chức Quyền chủ tịch Đảng.
Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình,
Bành Chân đã thuyết phục được Mao đồng ý khôi phục danh dự cho trên một triệu
cán bộ trong cuộc vận động chống phái hữu đã bị quy là phần tử cơ hội hữu
khuynh, trong đó có Phó thủ tướng kiên trưởng ban công tác nông thôn Đặng Tử
Khôi. Trong một cuộc hội ý Thường vụ Bộ Chính trị, Chu Đức đề nghị phục hồi
danh dự cho Bành Đức Hoài, nhưng Mao không chịu: “Mời Bành Đức Hoài trở lại,
việc ở Lư Sơn cho trôi qua, ba lá cờ hồng không cần nữa. Được thôi, tôi và Lâm
Bưu sẽ dưỡng bệnh lâu dài ở miền Nam, trao Bắc Kinh cho các ông”. Lưu Thiếu Kỳ
đành dàn hoà giữa hai người: “Việc Bành Đức Hoài để lại sau, hãy vượt qua đại
nạn trước mắt đã”.
Hội nghị Bắc Đới Hà lần này họp
hơn một tháng (5-7 đến 10-8), xác định phương châm 8 chữ “chỉnh đốn, củng cố,
bổ sung, nâng cao”, đánh dấu chấm dứt “Đại tiến vọt”. Hôm bế mạc, với bộ mặt ốm
yếu, đáng thương, tâm tư nặng nề, Mao kiểm điểm, thừa nhận mình không hiểu kinh
tế, gây hoạ lớn, gây ra nạn đói lớn chết nhiều người như vậy, khó tránh khỏi
trách nhiệm; các uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ viên Trung ương, Bí thư thứ nhất Tỉnh
uỷ và Thành uỷ cũng khó tránh khỏi trách nhiệm. Mao tuyên bố sau hội nghị này
ông sẽ thật sự lui về tuyến 2, không nắm công tác kinh tế, công tác đảng, không
chỉ huy sản xuất công nông nghiệp nữa, chỉ cùng Lâm Bưu nắm công tác quân sự và
Phong trào cộng sản quốc tế, thời gian còn lại đọc sách, nghiên cứu lý luận.
Mao một lần nữa đề nghị chính thức thông qua văn kiện nội bộ, để Lưu Thiếu Kỳ
làm Quyền Chủ tịch Đảng trong thời gian ông ta dưỡng bệnh.
Từ đó Mao rút về tuyến 2 (nhưng
không từ bỏ quyền lực), bắt đầu thời kỳ Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Trần Vân,
Đặng Tiểu Bình chỉnh đốn, phục hồi kinh tế quốc dân. Sau hội nghị trên, trừ Mao
Trạch Đông và Lâm Bưu dưỡng bệnh ở miền Nam, các uỷ viên Bộ Chính trị đều chia
nhau xuống nông thôn điều tra nghiên cứu, giải quyết nạn đói và các vấn đề tại
chỗ.
Ba năm “Đại tiến vọt” hậu quả
cực kỳ nghiêm trọng, toàn bộ nền kinh tế quốc dân rối tung lên, các tỉ lệ mất
cân đối.
Một là mất cân đối giữa tích
luỹ và tiêu dùng, tỉ lệ tích luỹ trong 3 năm 1958-1960 là 33,9%, 43,9% và
39,6%, vượt xa tỉ lệ tích luỹ bình quân hàng năm 24,2% trong Kế hoạch 5 năm thứ
nhất.
Hai là mất cân đối giữa công
nghiệp và nông nghiệp, công nghiệp gang thép phát triển dị hình, từ 1958 đến
1960, công nghiệp nặng tăng trưởng 330%, trong khi nông nghiệp giảm 22,8%.
Ba là mất cân đối trong nội bộ
ngành công nghiệp, sản xuất gang thép chiếm nhiều năng lượng, nguyên vật liệu,
giao thông vận tải, khiến các ngành khác không có cách nào sản xuất bình
thường.
Bốn là mất cân đối trong thu
chi tài chính và mất cân đối nghiêm trọng giữa sức mua xã hội và khả năng cung
cấp hàng hoá.
Năm là mất cân đối giữa khả
năng cung ứng lương thực hàng hoá và nhân khẩu thành thị tăng nhanh. Lương thực
năm 1959 đánh giá đạt 270 triệu tấn, thực tế chỉ có 170 triệu tấn. Năm 1960
giảm xuống còn 143,5 triệu tấn. “Đại tiến” biến thành “đại thoái”.
Trước tình hình ấy, Chu Ân Lai
đã thể hiện trách nhiệm chính trị lớn lao, và năng lực trị quốc an dân tuyệt
vời.
Năm 1960 là một năm tình hình
kinh tế đất nước tồi tệ nhất, nhiều người chết đói nhất, là năm khủng hoảng
niềm tin đối với Mao Trạch Đông xuất hiện trong toàn đảng, toàn quân, toàn dân,
là năm Mao Trạch Đông nên rút khỏi vũ đài chính trị. Trong bối cảnh ấy, tháng
9-1960, Lâm Bưu triệu tập Hội nghị Quân uỷ Trung ương mở rộng, ngày 20-10 ra
nghị quyết ủng hộ Mao, với lời lẽ kinh thiên động địa:
“Đồng chí Mao Trạch Đông là
người Mác xít - Leninnít vĩ đại thời nay. Tư tưởng Mao Trạch Đông là chủ nghĩa
Mác-Lenin được phát triển sáng tạo trong thời đại chủ nghĩa đế quốc đi tới sụp
đổ, chủ nghĩa xã hội tiến tới thắng lợi, trong thực tiễn cụ thể của cách mạng
Trung Quốc, trong sự phấn đấu tập thể của Đảng và nhân dân. Tư tưởng Mao Trạch
Đông là kim chỉ nam của nhân dân Trung Quốc trong công cuộc cách mạng và xây
dựng chủ nghĩa xã bội, là vũ khí tư tưởng hùng mạnh chống chủ nghĩa đế quốc,
chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều… Nhiệm vụ căn bản nhất trong công tác
chính trị tư tưởng của quân đội là giương cao ngọn cờ hồng Tư tưởng Mao Trạch Đông,
lấy đó vũ trang hơn nữa đầu óc cán bộ, chiến sĩ toàn quân, kiên trì dùng tư
tưởng Mao Trạch Đông thống soái mọi công tác”.
Từ Đại hội 7 năm 1945 trở đi,
tuyên truyền Tư tưởng Mao Trạch Đông là bản quyền của Lưu Thiếu Kỳ, nhân vật số
2 trong đảng. Tại Đại hội 8 (1956), Báo cáo chính trị và Điều lệ đảng đã xoá bỏ
cách nêu Tư tưởng Mao Trạch Đông, những năm gần đây vẫn nói “Học tập tác phẩm
của Mao Chủ tịch”. Lâm Bưu đột ngột lấy danh nghĩa Hội nghị Quân uỷ Trung ương
mở rộng đưa ra văn kiện vượt trên Đại hội 8, vượt trên điều lệ đảng này không
khác nào cướp ngọn cờ lớn sùng bái cá nhân trung tay Lưu Thiếu Kỳ, phá vỡ trật
tự cuộc sống của tầng lớp cấp cao trong ĐCSTQ. Toàn quân, toàn đảng đều phải
tuyên truyền Mao Trạch Đông và Tư tưởng Mao Trạch Đông theo giọng điệu của Quân
uỷ Trung ương, trên thực tế hình thành một bộ tư lệnh khác đối lập với Lưu
Thiếu Kỳ (chủ trì Bộ Chính trị) và Đặng Tiểu Bình (chủ trì Ban Bí thư), mà Mao
Trạch Đông lại đứng về phía Lâm Bưu. Việc làm của Lâm đã thách thức Điều lệ
đảng, thách thức Lưu, Đặng, thách thức Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Trước sự uy
hiếp của Lâm Bưu và mấy triệu quân, chẳng ai dám vạch ra sai lầm của ba ngọn cờ
hồng, chẳng ai dám truy cứu trách nhiệm về hàng chục triệu người chết đói, mà
chỉ lặng lẽ uốn nắn sai lầm của “cấp dưới”.
Tháng 9-1961, nguyên soái Anh
Montgomery thăm Trung Quốc. Ngày 23, gặp nhau tại Vũ Hán, khi vị khách hỏi về người
thừa kế. Mao trả lời: “Rất rõ ràng, đó là Lưu Thiếu Kỳ. Nay Lưu là Phó Chủ tịch
thứ nhất ĐCSTQ. Sau khi tôi chết, ông ta sẽ lên thay”. Về Anh, Montgomery thuật
lại lời Mao, khiến thế giơi xôn xao, và ở Trung Quốc còn xôn xao hơn.
Thông tin trên ít nhất thể hiện
3 ý tứ sâu xa:
1. Đại tiến vọt và công xã nhân
dân gây hậu quả rất nghiêm trọng, Mao từ lâu đã rút về tuyến 2, Lưu phải chịu
trách nhiệm về giai đoạn lịch sử này.
2. Mao khuyến khích Lưu Thiếu
Kỳ toàn lực chỉnh đốn kinh tế quốc dân đang bên bờ vực thẳm tan vỡ, khôi phục
sản xuất công nông nghiệp.
3. Mao chơi con bài Lưu, khống
chế Lâm, lại chơi con bài Lâm, khống chế Lưu, để cho hai người tranh nhau trung
thành với lãnh tụ vĩ đại, lại chỉ trích nhau không trung thành với lãnh tụ như
vậy, vị trì của Mao càng vững chắc, an toàn.
Mao không
thật sự có ý định để Lưu Thiếu Kỳ kế tục mình.
Tân Tử Lăng
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment