Hán Văn Giáo
Khoa Thư và Viện Hán Học Huế
Nguyễn Công Thuần Khóa 3 VHH
Huế
Khi mới vào năm thứ nhất Viện Hán Học
(niên khóa 1961 - 1962), ngoài việc học những bài trong sách Luận
Ngữ với Linh mục Nguyễn Văn Thích, chúng tôi còn được các thầy
Ngô Đình Nhuận và Châu Văn Liệu dạy cho những bài trong sách Học Chữ Hán của
hai thầy Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao biên soạn. Lúc bấy giờ, tôi
có nghe nói hai thầy Võ và Nguyễn còn đang biên soạn một bộ sách khác rất
công phu, nhưng chưa thấy xuất bản. Đến giữa niên khóa 1964-1965 thì có tin
Viện Hán Học giải tán, tôi chuyển qua học Đại Học Sư Phạm và học thêm ở Văn
Khoa với các giáo trình khác. Khi ra đời đi dạy, tôi chỉ vận dụng những
kiến thức căn bản đã học được ở Viện Hán Học để tra cứu các từ điển chứ không
không có thì giờ học thêm sách giáo khoa nữa. Vì thế tôi không biết sách của
hai vị thầy ở Viện Hán Học trước xuất bản khi nào. Sau 1975, tôi chỉ dạy học
vài năm, rồi nghỉ dạy vào Sài Gòn làm việc khác. Những khi rảnh rỗi, tôi thường
đến các cửa hàng sách cũ lục tìm những sách cần thiết. Tại một tiệm bán sách
cũ bên đường Điện Biên Phủ Q.I. Sài Gòn, tôi thấy quyển HÁN-VĂN GIÁO-KHOA
THƯ (HVGKT) Tập I (Đệ thất - Đệ lục), Soạn giả: Võ Như Nguyện - Nguyễn
Hồng Giao, in lần thứ nhất, 1965, Bộ Giáo Dục xuất bản.
277Bộ Văn Hóa Giáo Dục có ủy thác Viện Đại
học Huế soạn thảo một bộ sách dạy Hán văn cho các lớp Trung học Đệ Nhất cấp.
Mục đích của Bộ không phải chỉ để giúp ích riêng cho những học sinh theo đuổi
Hán văn thuần túy mà còn cho tất cả học sinh nào muốn viết và nói tiếng Việt
cho đúng. Hẳn ai cũng biết, muốn giỏi Việt văn cần phải am hiểu Hán văn, để
trong khi viết và nói, khỏi bị lầm lẫn về từ ngữ. Sở dĩ trong sách, báo ta
thường thấy những chữ dùng sai như “xán lạn” thì viết “sáng - lạng”, “tháp
nhập” hóa thành “sát nhập”, “yếu - điểm” lẫn lộn với “nhược - điểm”, “tái nhóm”
thay vì “tái hội”, v.v.. Đó là điều khiếm khuyết rất quan trọng mà chúng ta
không thể nào bỏ qua được. Viện tôi đã giao việc soạn thảo bộ sách ấy cho
hai giáo sư Viện Hán Học là Ông Võ Như Nguyện và Ông Nguyễn Hồng Giao. Hai ông
không những là giáo sư giàu kinh nghiệm về việc dạy Hán Văn mà còn là tác giả
những cuốn sách giáo khoa có giá trị về ngành này. Khi hoàn thành bản thảo (gồm
2 tập, tập I cho các lớp Đệ Thất và Đệ Lục, tập II cho các lớp Đệ Ngũ và
Đệ Tứ) hai ông đưa cho tôi xem, tôi lấy làm vừa ý lắm. Sách soạn công phu và
đạt được mục đích của Bộ đã đề ra, nghĩa là hai tác giả đã khéo chọn lựa những
câu, những đoạn văn, trong đó những chữ Hán Việt đã giữ một vai trò quan trọng.
Hiện nay, những sách dạy Anh văn, Pháp văn bán đầy dẫy các tiệm sách, nhưng
sách dạy Hán Văn lại quá khan hiếm. Những học sinh nào muốn trau giồi thêm
tiếng Việt Hán đã phải bối rối trong việc tìm kiếm sách học. Bộ sách giáo khoa
Hán Văn của hai Ông Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao ra đời, tôi tin chắc sẽ
đáp ứng được nhu cầu đã nói. Và tôi cũng trông mong các ông tiếp tục soạn thêm
những sách khác cho các lớp trên.
Huế, ngày 14 tháng 1 năm 1964.
L.M. CAO VĂN LUẬN
Viện trưởng Viện Đại học Huế
theo đúng tinh thần của chương trình
1959. Hai ông Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao hiện nay lại đều là giảng
viên Hán Văn của Viện Hán Học nên hai ông đã sốt sắng đảm nhiệm công việc này.
Sẵn có kinh nghiệm khi biên soạn sách “HỌC CHỮ HÁN” cũng như mấy năm đã từng
giảng huấn ở Viện Hán Học, hai ông bắt tay ngay vào việc và ra công soạn
nên bộ “SÁCH GIÁO KHOA HÁN VĂN” gồm hai tập, tập I cho các lớp Đệ Thất, Đệ Lục
và tập II cho các lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ. Bộ sách sau này dày gấp bốn quyển “HỌC CHỮ
HÁN” và riêng cho mỗi năm số bài soạn có phần nhiều hơn số bài cần thiết cho cả
niên khóa, để học sinh có bài học thêm ngoài những bài đã dạy ở lớp và cho quý
vị giáo sư có thể tùy nghi lựa chọn. Sách soạn rất công phu và có phương pháp,
bắt đầu giảng về cách cấu tạo chữ Hán, phép lục thư, cách tập viết và tính nét,
thứ tự các bộ phận trong chữ v.v. Học xong phần đầu nầy, học sinh đã có một ý
niệm khái quát về môn học chữ Hán. Từ bài thứ nhất trở đi mới giảng về ngữ
vựng, theo lối tiệm tiến, từ dễ tới khó, trong phần nầy có giải nghĩa rõ ràng
về cách phối hợp các loại chữ với nhau, văn phạm, từ ngữ, thành ngữ, những chữ
đồng căn, đồng nghĩa, hoặc đồng âm dị nghĩa, cách đặt câu, cách dùng hư
tự, v.v. và cuối mỗi bài lại có một bài tập. Những thơ văn trích giảng đều được
chọn lọc kỹ càng và đều có thể bồi dưỡng cho sự hiểu biết của học sinh về
phương diện nào đó. Thỉnh thoảng ta lại tìm thấy một vài giai thoại hay một
cuộc so sánh hứng thú làm cho bài học không bao giờ có vẻ khô khan. Với cách
trình bày như vậy, học sinh có lẽ không bao giờ đến nỗi nhàm chán và sợ môn Hán
tự; ở đâu họ cũng gặp những chữ thường nghe, thường nói, nhưng chưa hiểu được
một cách minh xác tường tận. Người học chỉ cần nhận kỹ những điều giảng giải và
chỉ dùng trí nhớ về chữ viết thôi. Học hết bộ nầy có thể nói rằng học sinh sẽ
biết dùng một cách chắc chắn đa số danh từ Hán -Việt thường gặp trong các sách
báo ngày nay. Quý vị giáo sư dạy về môn quốc văn đã phải nhiều phen phàn nàn
rằng học sinh lúc nầy dùng chữ sai lầm, cẩu thả, đại để “ngoan cố” hiểu ra
“ngoan ngoãn”, “bộc phát” hiểu ra là “bộc lộ” hoặc chưa phân biệt được “công
dụng” với “công hiệu”, “tác dụng” với “tác động”, thậm chí dùng lầm “thân
chinh” cho “thân hành”, như nói “ông thân chinh ra phố mua hàng”, v.v. những
lối dùng chữ sai lạc như trên không thể nào kể hết được. Đó là chưa nói học
sinh Trung - Nam vì phát âm không đúng, hay dùng lẫn lộn “bàn hoàn” với “bàng
hoàng”, “bàng quan” với “bàng quang” v.v. Trong các giờ giảng văn, nhiều khi
giáo sư cũng phải sửng sốt nghe học sinh giảng nghĩa các từ ngữ một cách không
ngờ. Cứ cái đà ấy thì sự học quốc văn không khéo sẽ lâm vào một tình trạng rất
hỗn độn. Vì những lẽ trên, chúng tôi nhận thấy quyển sách nầy ra đời rất nhằm
lúc và sẽ đỡ nhiều khó nhọc cho quý vị giáo sư quốc văn. Nó cũng giải thuyết
được một phần nào sự thiếu thốn sách giáo khoa về môn Hán tự. Tuy nhiên, vì
sách được soạn thảo trong một thời gian gấp rút để kịp cung ứng cho học sinh
một khóa bản sẵn có dưới tay, nên thế nào cũng không tránh được ít nhiều khuyết
điểm, những khuyết điểm ấy chỉ khi đem dùng mới thấy. Nếu đợi cho được hoàn
toàn, có lẽ còn phải lâu lắm; cứ như vậy, chúng tôi tưởng bộ “SÁCH GIÁO KHOA
HÁN VĂN” nầy cũng là một cố gắng đáng khen ngợi và khuyến khích.
PHAN VĂN DẬT
Giám học Viện Hán Học Huế.
bản. Tập I : Lớp sáu - Lớp bảy, In lần
thứ nhất, 1965, 2000 quyển (đó là quyển sách tôi đã mua); in lần thứ 2, 1972,
5000 quyển; Tập II, Lớp tám - Lớp chín, in lần thứ nhất, 1972, 5000 quyển. Phía
dưới, cả hai tập đều ghi Hội Đồng Duyệt gồm: Bửu Cầm - Thuyết trình viên; Thẩm
Quýnh - Hội viên; Nghiêm Toản - Hội viên. (Điều này ở Tập I tôi đã mua trước
thì không có). Tiếp đó, cả hai tập đều có in Lời Giới Thiệu của Linh mục Cao
Văn Luận và lời Tựa của thầy Phan Văn Dật.
(Sách HVGKT I & II do Trung Tâm Học Liệu xuất bản)
Sách này thuộc loại bán giá cao nên tôi nhờ chủ tiệm phô-tô cho một bản Tập II rồi trả tiền theo giá “hữu nghị” như một vài bộ sách đắc giá trước đây tôi đã từng mua tại tiệm này. Nhưng lần này chủ tiệm bảo: Ông cứ đem về phô - tô vài ba hôm rồi trả cho tôi cũng được. Tôi liền đem về tiệm quen hối phô - tô gấp rồi chưa hết ngày đã đem trả lại và chủ tiệm cũng không lấy đồng nào. Thế là tôi đã có được đủ bộ một di vật về thầy xưa trường cũ. Sau khi có đủ bộ, thỉnh thoảng tôi mở ra xem, mỗi lần vài ba bài. Tôi nhận thấy các thầy biên soạn rất công phu và khoa học. Sách đi từ dễ đến nâng cao nên những người đã học được ít nhiều như tôi cũng có thể dựa vào đó để củng cố lại căn bản Hán Văn của mình. Có lẽ cũng vì thế nên từ năm 1997 đến nay, Nhà xuất bản Đà Nẵng đã in lại bộ sách này 3 lần: Năm 1997 in trọn bộ, chia thành 2 quyển như sách của Trung Tâm Học Liệu trước; về sau, năm 2009 và 2013 mỗi lần cũng in trọn bộ nhưng dồn chung 01 quyển 832 trang. Các sách này đều không có Lời Giới Thiệu, bài Tựa, và phần Phàm lệ như sách của Trung tâm Học liệu trước, còn nội dung thì mỗi bài cũng đủ các mục nhưng tôi chưa đối chiếu chi tiết. Tôi nêu lên việc sách HVGKT do Trung Tâm Học Liệu xuất bản trước đã trở thành quí hiếm và việc Nhà xuất bản Đà Nẵng về sau đã nhiều lần in lại bộ sách ấy mà vẫn bán chạy là để chia sẻ niềm tự hào cùng các bạn đồng môn xưa về giá trị của một công trình có thể nói là “vượt thời gian” của các thầy chúng ta trước đây nửa thế kỷ.
Sách này thuộc loại bán giá cao nên tôi nhờ chủ tiệm phô-tô cho một bản Tập II rồi trả tiền theo giá “hữu nghị” như một vài bộ sách đắc giá trước đây tôi đã từng mua tại tiệm này. Nhưng lần này chủ tiệm bảo: Ông cứ đem về phô - tô vài ba hôm rồi trả cho tôi cũng được. Tôi liền đem về tiệm quen hối phô - tô gấp rồi chưa hết ngày đã đem trả lại và chủ tiệm cũng không lấy đồng nào. Thế là tôi đã có được đủ bộ một di vật về thầy xưa trường cũ. Sau khi có đủ bộ, thỉnh thoảng tôi mở ra xem, mỗi lần vài ba bài. Tôi nhận thấy các thầy biên soạn rất công phu và khoa học. Sách đi từ dễ đến nâng cao nên những người đã học được ít nhiều như tôi cũng có thể dựa vào đó để củng cố lại căn bản Hán Văn của mình. Có lẽ cũng vì thế nên từ năm 1997 đến nay, Nhà xuất bản Đà Nẵng đã in lại bộ sách này 3 lần: Năm 1997 in trọn bộ, chia thành 2 quyển như sách của Trung Tâm Học Liệu trước; về sau, năm 2009 và 2013 mỗi lần cũng in trọn bộ nhưng dồn chung 01 quyển 832 trang. Các sách này đều không có Lời Giới Thiệu, bài Tựa, và phần Phàm lệ như sách của Trung tâm Học liệu trước, còn nội dung thì mỗi bài cũng đủ các mục nhưng tôi chưa đối chiếu chi tiết. Tôi nêu lên việc sách HVGKT do Trung Tâm Học Liệu xuất bản trước đã trở thành quí hiếm và việc Nhà xuất bản Đà Nẵng về sau đã nhiều lần in lại bộ sách ấy mà vẫn bán chạy là để chia sẻ niềm tự hào cùng các bạn đồng môn xưa về giá trị của một công trình có thể nói là “vượt thời gian” của các thầy chúng ta trước đây nửa thế kỷ.
(Sách HVGKT I & II - Nhà Xuất bản Đà Nẵng)
Mỗi lần cầm quyển sách đọc vài bài, tôi đều lướt qua một đoạn trong lời tựa và mường tượng như nghe thầy Dật nói chuyện ngày xưa. Qua mỗi bài học, tâm trí tôi lại hình dung cả dáng điệu và giọng nói của các thầy khi giảng bài thuở trước; đọc mấy bài văn vần cụ Hồ Đắc Định dịch thơ chữ Hán, tôi như còn nghe rõ giọng cụ ngâm thơ trong lớp ngày xưa. Ngoài ra, khi tra cứu những quyển trong bộ Tứ Thư, tôi cũng thường nhớ lại giọng ngâm bài “Xuân du phương thảo địa” của Linh mục Nguyễn Văn Thích; nhớ cụ Hà Ngại luôn luôn nghiêm chỉnh trọng bộ quốc phục áo dài khăn đóng; đọc những sách của Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam tôi lại nhớ đến thầy Nguyễn Duy Bột hiền lành và tận tụy. Qua những mốc thời gian ghi trong Lời Giới Thiệu của Linh Mục Viện Trưởng và bài Tựa của thầy Phan Văn Dật, kết hợp với tài liệu của anh Lý Văn Nghiên ghi trong bài viết ở Đặc San kỷ niệm 50 năm thành lập Viện Hán học Huế 1959 – 2009, tôi nhận ra việc biên soạn sách của hai thầy Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao rất phù hợp với mục tiêu và quy trình đào tạo sinh viên Viện Hán học:
Mỗi lần cầm quyển sách đọc vài bài, tôi đều lướt qua một đoạn trong lời tựa và mường tượng như nghe thầy Dật nói chuyện ngày xưa. Qua mỗi bài học, tâm trí tôi lại hình dung cả dáng điệu và giọng nói của các thầy khi giảng bài thuở trước; đọc mấy bài văn vần cụ Hồ Đắc Định dịch thơ chữ Hán, tôi như còn nghe rõ giọng cụ ngâm thơ trong lớp ngày xưa. Ngoài ra, khi tra cứu những quyển trong bộ Tứ Thư, tôi cũng thường nhớ lại giọng ngâm bài “Xuân du phương thảo địa” của Linh mục Nguyễn Văn Thích; nhớ cụ Hà Ngại luôn luôn nghiêm chỉnh trọng bộ quốc phục áo dài khăn đóng; đọc những sách của Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam tôi lại nhớ đến thầy Nguyễn Duy Bột hiền lành và tận tụy. Qua những mốc thời gian ghi trong Lời Giới Thiệu của Linh Mục Viện Trưởng và bài Tựa của thầy Phan Văn Dật, kết hợp với tài liệu của anh Lý Văn Nghiên ghi trong bài viết ở Đặc San kỷ niệm 50 năm thành lập Viện Hán học Huế 1959 – 2009, tôi nhận ra việc biên soạn sách của hai thầy Võ Như Nguyện và Nguyễn Hồng Giao rất phù hợp với mục tiêu và quy trình đào tạo sinh viên Viện Hán học:
1959. Điều 27 của Nghị định này quy
định rằng những sinh viên tốt nghiệp có thể được bổ dụng vào các chức vụ sau
đây với chỉ số lương 370:
- Chuyên viên các tòa đại sứ ở các nước
Đông Nam Á.
- Chuyên viên tại các viện khảo cổ.
- Giáo sư Trung học đệ nhất cấp ngành
Hán học.
Căn cứ Sắc lệnh và Nghị định trên, Viện
Hán Học đã được thành lập và nhanh chóng tổ chức thi tuyển khóa 1 vào ngày
25/12/1959, khai giảng vào ngày 4/1/1960.
T.T.C
(Trích Đặc San 55 Năm Nhớ Lại của
cựu sinh viên Viện Hán Học Huế biên soạn)
No comments:
Post a Comment