Quà đêm trên sông ông Lãnh
Nếu ban ngày con sông Ông Lãnh rộn rịp sanh
hoạt với những ghe thương hồ chở khẩm lừ trái cây và các thứ hàng hóa khác, thì
về đêm, một sự sống âm thầm nhưng không kém linh động, nổi lên trong khi người
ta ngỡ con rạch ngủ yên.
Ở đây không có
xe hơi, không có ra-đi-ô, không có trẻ nô đùa, nên những tiếng bí mật của đêm
trường mang rõ linh hồn của nó, âm thanh có sự sống đã đành mà cho đến tiếng
động, lắm khi cũng thành nhạc.Một chiếc xuồng tam bản, chuồi êm rơ trên mặt nước, một mái chèo khua nhẹ trên dòng kinh, một đèn dầu leo lét soi mờ bóng một cô chèo xuồng, rồi từ tất cả các thứ ấy, vẳng lên : “Ai… chè đậu…cháo cá…hông ?”.
Bất giác ta bị
đẩy lùi về thế kỷ trước và câu ca dao :
Bắp non mà
nướng lửa lò,
Đố ai ve được
con đò Thủ Thiêm.
như được một
người bình dân nào bập bẹ cho nó thành hình, chập chững lần dò, bỏ một tiếng,
thêm một lời, để tỏ tình gián tiếp với cô bé chèo thuyền có tấm thân uốn éo như
dòng sông uốn khúc.
Khách hàng dưới
sông phần lớn là dân quê, những trạo phu của ghe thương hồ. Vì thế quà ở đây
cũng nấu theo lối quê, thật thà nhưng đậm hương vị. Cháo cá ngọt cái chất ngọt
của cá đen ở đồng chớ không phải ngọt ngay nhờ bột ngọt hóa học như cháo trên
bờ. Mùi thơm của chè đậu trắng gợi nhớ mùa chè cúng đưa ông Táo ngày hăm ba Tết
ở làng xa.
Lối bán hỗn hợp
hai thứ quà mặn ngọt này cũng là làm theo truyền thống nhà quê. Trên phố, người
ta bán cháo cá vào giấc sáng, thỉnh thoảng về đêm; chè đậu luôn luôn bán buổi
trưa từ 11 giờ đến hai giờ.
Quà trên sông
Ông Lãnh luôn luôn nóng hổi, vì bếp lửa khỏi phải gánh nặng nề, nên các nồi quà
được nằm mãi trên cà-ràng cho đến khi vơi tới đáy.
Ai đã ăn món xu
xoa mật đường hạ trên kinh Tàu Hủ vào mùa nực chưa ? Đường hạ đen sản xuất ở
Biên Hòa tiết ra một mùi thơm đặc biệt mà đường cát trắng không có được. Khi
thứ đường hạ ấy được nấu thành mật để ăn bánh đúc hoặc ăn tàu hủ (óc đậu), xu
xoa, thì hương vị của nó càng đậm đà hơn.
Ta cứ nghe như
là phảng phất đâu đây mùi đồng áng, mùi lò đường tiểu công nghệ với những đêm
dài nổi lửa đốt lò, với tiếng rít ghê rợn của các “ông che”.
Món xu xoa
(thạch xoa) giống như vải may áo mưa không thể thấm mật. Tuy thế mật đường hạ
vẫn cố len lỏi xâm nhập vào các mảnh quà ấy, thứ quà trơ trẽn không hương không
vị, để giúp cho ta nuốt cho trôi món giải khát đặc đó. Trên bờ, ăn xu xoa với
đường cát khô, nghe như là hai món riêng rẽ ra, cổ họng nhám ồ những kết tinh
đường chưa tan.
Một văn hữu
miền Bắc, khi mới vào Sàigòn, cách đây bảy năm, đã lấy làm ngộ nghĩnh cho lối
bán quà và rao quà của người miền Nam. Anh bạn thích nhất là món bột khoai…
Đó là thứ quà
hỗn hợp và hỗn độn, hình ảnh của những đợt sóng người tràn vào đây khai hoang
đất mới, từ ba trăm năm nay. Thứ chè ấy gồm cả những món ăn dùng để nấu thức ăn
mặn như là bún Tàu (miến), nấm mèo (mộc nhỉ), vân vân… Thật là hằm bà lằng, xà
ngầu.
Đặc biệt nữa là
khi rao quà, họ kể hết các món ấy ra :
Ai…ăn bột
khoai, bún Tàu… đậu xanh, nước dừa, đường cát….hôn ?
Bản nhạc đêm
trường ấy, từ mười năm nay, trên bờ không ai được nghe nữa. Theo nhịp sống cấp
tốc hiện tại, các chị bán quà trên bờ đã rao tắt : “Ai…bột khoai.?”.
Nhưng kinh Tàu Hủ cứ còn giữ truyền thống cũ, và trong cảnh vắng lặng ở đây,
nhạc điệu câu rao được khởi sắc lên nhiều.
Khối người đã
đẻ ra bản Vọng Cổ, cố nhiên là phải xuất sắc trong việc nhạc điệu hóa một câu
văn xuôi rất dài, và nghe những tiếng kể món hàng một cách ngọt xớt ấy, tự
nhiên bắt thèm chè bột khoai, không cưỡng được nữa.
–¯—
Từ mười mấy năm
trước, chiến tranh đã đẩy lên Sàigòn nhiều nữ trạo phu chuyên chèo xuồng bằng
hai cây chèo một lượt. Trước kia chỉ ở Hậu Giang người dân mới biết chèo lối đó
thôi. Dân Sàigòn và dân miền Đông ít khi được thấy xảo thuật ấy.
Cô bán bánh
canh cá nầy, chắc lúc trôi dạt đến đây, chỉ lên mười là cùng. Bây giờ cô đã hăm
lăm và xử dụng hai cây chèo bằng một tay thầy.Nhưng khách thương hồ không mê lối chèo choáng cả lòng sông của cô, không mê lối đẩy mông đá cẳng của cô mỗi bận cô cất hay hạ mái chèo đôi, mà chỉ nghiện hương hành lá tươi của nồi bánh canh cá trên xuồng của cô.
Dân Sàigòn quả
đã bỏ mất hết khiếu tế nhị trong việc ăn uống. Người ta nấu bánh canh giò heo
cho họ mà họ cứ im lặng nhận lấy, không phản đối bao giờ. Không, món bánh canh
phải nấu bằng cá rô, hay tệ lắm bằng cá lóc. Cũng không được phép gia vị bằng
hành tây. Chỉ có hành hương (tên là hương mà lại) trồng ở thôn quê, mới bốc
hương lên khi được thả trôi trên nước bánh canh sôi ùng ục.
Bánh canh của
cô hàng hai chèo là một món quà “thống nhứt” : nước, bánh, cá, hành, tiêu, cả
bốn thứ đoàn kết với nhau để biến thành một khối duy nhất có mùi vị riêng biệt
khác với mùi của từng thành phần, các mùi vị ấy nương tựa lẫn nhau; thiếu một
cái, không xong, đồng đội xung phong lên công kích các hạch nước miếng của
khách đêm. Thật là khác xa với bánh canh giò heo trên bờ, ngọt như chè, và bời
rời bánh ra bánh, nước ra nước, thịt ra thịt !
–¯—
Pánh pò, pánh
tiu, dò chó quẩy…?
Chú khách nầy
bỗng dưng đổi cung đàn. Đây là khúc nhạc “Bát man tấn cống”, tám chú man rợ đến
dâng “con quỉ chết trôi” [1][1]. Giọng rao man
rợ mà món quà cũng đặt tên một cách gợi buồn nôn.
Chú khách bán
pánh pò dò chó quẩy nầy gợi lại hình ảnh một cuộc phôi thai kinh tế, không có
chú ta thì nhạt cả màu sắc địa phương đi.
Những đêm mưa
dầm, các xuồng quà biến mất hết, duy chỉ có chú ta là đứng vững trong phong ba
với chiếc tam bản mũi bằng theo lối tàu của chú.
–¯—
“Kẹo đậu phộng
trà Huế hông ?” Ông già rụng
răng nầy rao nghe còn dở hơn chú Khách trên. Nhưng người ta cứ mong lão tới.
Họ thích xem
lão đưa cao ấm nước trao đang sôi lên, rót trà xuống một tô nước lạnh, lão rót
thế nào mà bọt dâng lên còn nhiều hơn là bọt bia, không khát nước, trông thấy
cũng cứ thèm.Thích nhứt là xem lão ta uống, không biết bao tử lão bao lớn mà hễ khách quen thách uống là lão tự pha cho lão, không phải một tô thường, mà một tô con rồng thứ tô sứ giả sản xuất ở Lái Thiêu cách đây bốn mươi năm mà ngày nay ít gia đình nào còn giữ được.
Tô ấy to bằng năm tô thường. Lão ta uống một hơi, không nghỉ để thở lần nào cả. Những người biết lão nhiều, kể rằng lão có tài ăn năm mươi chiếc bánh trôi nước có nhân, rồi uống liên tiếp hai tô nước như vậy.
“Kẹo đậu phộng
trà Huế hông ?” Câu hát không
hay ho gì nhưng nghe yêu đời lắm, vì do miệng một kẽ yêu đời hát lên, kẻ ấy đã
ngót bảy mươi rồi và chắc không con cháu, nhưng chưa hề ai thấy lão than thở
một lần, đêm đêm quạt lò trà xành xạch, để sống những ngày nhàn như thời Sàigòn
chưa thấy xe hơi, những ngày một miếng kẹo, một tô trà Huế đậm và một miếng trầu,
cả ba thứ đều bán chung lại với một giá kinh khủng… một xu.
Bình Nguyên Lộc
Bình Nguyên Lộc
(Sáng Tạo
1960)
1] Theo thổ ngữ Quãng Đông, giò chó quẩy là con quỉ chết trôi.
No comments:
Post a Comment