Một Ngày Với Mùa Xuân Hà Nội
Phần Hai
Anh BĐQ đứng lên, khệnh khạng tiến tới quầy, hai
tay thọc trong hai túi quần. Tôi bước theo, sợ to chuyện, và nhắc nhở “tụi mình
vẫn còn là tù binh, chưa được phát giấy ra trại”. Anh hiểu, và nói một hơi:
- Cho tụi này năm tô phở bò tàu bay Hiền Vương,
tái, chín, nạm, gầu, gân, sách, nước béo, giá trụng, hành trần, chanh, ớt,
tương đen, ngò gai, nhiều bánh, nghe kịp không?
Ba cô, dĩ nhiên, nghe sao kịp, không hiểu, hay
chỉ hiểu lõm bõm, trợn tròn mắt, tưởng anh nói tiếng Ấn Độ. Một cô, có lẽ tổ
trưởng, xẵng giọng:
- Đây là cửa hiệu quốc doanh. Chỉ có một loại
phở mà thôi, không có thứ gì khác. Rõ chưa?
Anh quay nhìn tôi, rồi ngó thấy cô “chằn” quá,
liền xuống nước:
- Gõ gồi (rõ rồi). Ờ, thì cô bán cho năm tô đi.
Và năm chai bia.
- Không có bia chai, mà chỉ bia “bốc” thôi.
Anh lại hỏi:
- Bia “bốc” là bia gì dzậy?
- Là bia hơi rót từ cái bình thủy tinh lớn kia,
ông cụ nội ạ, chứ còn là bia gì nữa?
Tôi cười cười, cố tình nói đùa cho tình hình bớt
căng thẳng:
- Nghĩa là chưa uống nó đã “bốc hơi” bay đi hết,
phải không cô?
Nhưng cô quốc doanh nguýt tôi, rồi lườm anh BĐQ,
mắt tóe lửa, như muốn nhai tươi nuốt sống hai thằng. Và bảo “trả tiền trước đi
đã”, tổng cộng cả bia lẫn phở cho năm tên “ngụy” là 50 đồng.
Hai thằng trở lại bàn. Ngồi chờ mãi, gần nửa
tiếng, mà phở, bia chưa thấy mang ra, anh lại bực bội, gõ chiếc muỗng vào cái
ly nghe leng keng, rồi nói lớn:
- Sao lâu quá gồi mà không thấy ai bưng phở, đem
bia ga dzậy cà?
Cô “tổ trưởng” từ quầy cũng to tiếng, đáp lễ:
- Đến đây mà bê ra, không ai hầu cho đâu!
Cả đám bật đứng lên, bước đến phía quầy, thấy
một lô tô phở, không nước, làm sẵn đồng loạt từ lâu, nằm chình ình trên một cái
khay lớn. Nghĩa là khách địa phương, rành thủ tục, chỉ có việc đến quầy trả
tiền, lúc đó các cô “phục vụ” mới đổ nước lèo nóng vào, rồi tự động ai nấy bưng
tô phở ra bàn. Phở lơ thơ vài cọng rau, chỉ có một lát thịt bò thái mỏng như
lưỡi lam cạo râu, sẵn sàng bay theo cơn gió vô tình lướt qua. Nước phở còn nhạt
hơn nước ốc. Bia “bốc hơi” thì khỏi nói: không khác chi nước trà lên men.
Ăn uống tạm no, nhưng còn ấm ức, anh trung úy
BĐQ rút điếu thuốc Điện Biên ra hút, mơ màng nhả khói, như triết gia Jean-Paul
Sartre trên vĩa hè Paris, rồi than nhỏ với tôi: “ĐM. Cái gì cũng quốc doanh, không
khá nổi. Phở, bia, hay cha, thầy, sư quốc doanh gì cũng đều cà chớn gáo (ráo)
trọi”.
Ra đường, gặp một toán khác đi ngược chiều –khoe
vừa mới nhậu thịt chó xong. Hỏi ngon không, thì một anh hậm hực trả lời: “Ngon
gì mà ngon. Thịt chó quốc doanh chỉ có độc mỗi món luộc chấm với mắm tôm, không
ớt, mùi tanh lắm. Nhưng lỡ trả tiền rồi, cũng phải ráng nuốt thôi. Thịt chó Hà
Nội gì mà bết bát hết sức, thua xa thịt chó Hố Nai”.
IV. Rồi năm đứa chia tay nhau, đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ. Hẹn trở về
ga Hàng Cỏ trước 7 giờ tối, hoặc sớm hơn. Còn ít nhất bốn tiếng nữa để mà giết.
Làm gì cho hết nửa ngày nữa?
Tôi nẩy ý muốn đi xem phong cảnh Hà Nội. Bèn vẫy
một chiếc xích lô. Phu xe là một thanh niên trên ba mươi, tên Tứ, dáng dấp khỏe
mạnh, nói nhiều, giọng Bắc Khu Tư (Vinh). Tôi thương lượng:
- Anh chở tôi đi chơi vòng vòng xem cho biết Hà
Nội, cứ đạp từ từ, đến chỗ nào cũng được, tùy ý anh, trong ba tiếng, rồi chở
tôi trở lại ga Hàng Cỏ trước 7 giờ. Anh lấy bao nhiêu?
Anh mau mắn đáp:
- Dạ, bèo lắm thì cũng 40 đồng đấy anh ạ…
Tôi vừa ngồi lên nệm xe, anh đã đề nghị đi Hồ
Hoàn Kiếm trước. Hà Nội đang còn mùa xuân, hai bên đường hoa nở rộ, thắm tươi.
Những cành đào nặng trĩu hoa, rực rỡ một màu đỏ hồng, cong xuống, la đà theo
gió. Thấy tôi mải mê ngắm nghía một cách thích thú, Tứ góp chuyện:
- Còn một loài hoa nhỏ, chỉ nở từ tháng 3 đến
cuối tháng 4, tức tháng này, trắng xóa ven đường, lại tỏa hương thơm nhè nhẹ.
Tuyệt vời, anh ạ. Đó là hoa sưa... Đấy, anh ngắm đi, kia kìa, đúng là một cảnh
tuyết, giống ở Sapa...
Tôi hỏi lại:
- Hoa sưa hay hoa sữa?
- Dạ sưa. Du khách Sài Gòn ra, ai cũng lộn.
Dọc đường, ít thấy xe hơi, xe gắn máy hay bộ
hành qua lại. Du khách ngoại quốc, hay Việt kiều, cũng vắng. Một thủ đô đang
hấp hối hay đang ngái ngủ, tôi có cảm tưởng, lạc hậu nhất trên hành tinh này.
Lãnh đạo tự phong toàn là một lũ thất học, ngu đần, lúc bấy giờ còn say men
chiến thắng, còn bận nhiều việc: trả nợ cho hai nước “anh em vĩ đại”, Liên Xô
và Tàu Cộng, trả thù người chế độ cũ, lùa hàng trăm ngàn tù binh “ngụy” vào rọ
“học tập cải tạo”, đày dân đi vùng kinh tế mới để cướp nhà của họ, vơ vét và
chia chác của cải từ Miền Nam khuân ra Bắc, khoác lác khoe khoang với thế giới
rằng “VN đã đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ, Pháp và Mỹ”, và “VN chúng tôi có quá
nhiều anh hùng, vừa ra ngõ là gặp anh hùng”... Nên chúng chưa có kế hoạch phát
triển kinh tế, làm cho đất nước giàu mạnh.
Xích lô chạy một hồi, đến hồ Hoàn Kiếm lúc nào
không hay. Tôi bước xuống, đi bộ lên thảm cỏ xanh. Những nhánh liễu ven hồ, rũ
xuống, tàn lá lưa thưa, không đủ “che nửa mặt hoa” (Bạch Cư Dị) của những cô
gái trẻ ngồi tâm sự bên tình nhân, trên ghế đá. Tôi thấy họ có vẻ ngượng nghịu,
lúng túng đến tội nghiệp khi nắm lấy tay nhau, nói chi ôm nhau, hôn nhau.
Thương cho họ. Và ở một cảnh ngộ khác, thương cho chính tôi và những chiến hữu
bất ngờ trở thành tù binh, không kịp hẹn trước với Định Mệnh, vừa đứng trước
cổng trại giam là đã phải bỏ lại tất cả: quá khứ, vị lai, tình yêu, ước mơ, và
thảm não hơn, hy vọng. Dường như những cặp tình nhân này mới dưới quê lên thành
phố, hoặc vừa được Bác và Đảng “cởi trói” cho phép yêu nhau, sau tám năm “chiến
thắng” Miền Nam, trong khi Bác và bè lũ, những con yêu râu xanh thời đại, tha
hồ “đồi trụy”, vợ nọ con kia, mà mồm cứ phun ra những lời sặc mùi đạo đức giả.
Những tia nắng lấp lánh đuổi nhau trên mặt hồ.
Nhìn xa thấy màu nước đẹp lung linh, xanh như một tấm thảm rêu trải dài. Gần
bờ, trái lại, nước hồ quá bẩn, có chỗ lềnh bềnh những rác rưởi, giấy báo, bao
ni lông, lon, ca, cóng do ai vứt xuống bừa bãi, tắt nghẽn, không trôi đi được.
Trước kia, tôi đã đọc trong một quyển tiểu thuyết và nghe các ông bạn lớn tuổi,
chính gốc Hà Nội ba mươi sáu phố phường, kể rằng quanh bờ hồ Hoàn Kiếm thời
trước 1954, sạch sẽ lắm, là nơi tụ họp vui chơi cuối ngày, và cuối tuần, của đông
đảo dân Hà Thành, có những kiosques bán kem và lạc rang húng lìu nóng
dòn, có giọng ca nhí nhảnh của Joséphine Baker phát ra từ đĩa nhạc xưa, “J’ai
deux amours: mon pays et Paris...”, nhưng bây giờ, đứng đấy, tôi không
nghe, không thấy gì hết. Cũng như, theo lời Tứ kể, ở Hồ Tây, mà anh ngại xa
không muốn chở đến, không còn những chiếc périssoires(thuyền thoi) –mà
dân Đà Lạt rất quen thuộc trước 1975, trên hồ Xuân Hương. Hay người Cộng sản
không biết ăn kem Bờ Hồ, không biết nhai lạc rang, không biết nghe nhạc Pháp,
không biết bơi thuyền thoi, cho đó là sản phẩm của Thực dân, Đế quốc? Vua Lê
Lợi nếu sống lại chắc sẽ căm giận lắm về những hậu sinh khả ố, mất dạy, mê muội
hiện tại, nhắm mắt theo đuôi chủ nghĩa Cộng sản khốn nạn. Tôi cầu xin, khi mùa
đông về, mưa bay lất phất, rùa thần nổi lên mặt hồ, cho ngài mượn lại thanh
kiếm báu để chém bay đầu bè lũ chúng nó, như trưóc kia đã chém bay đầu Liễu
Thăng và giặc Minh...
Rời hồ Hoàn Kiếm, Tứ chở tôi dạo một vòng Bưu
điện gần đó, là một tòa nhà đồ sộ xây theo lối Tây, và xa hơn, những “phố”
(thực ra là những con đường) Huế, Tràng Tiền, Hai Bà Trưng... mà tại mọi góc
đều có Công An đứng gác, súng ống trang bị đến tận răng, mắt cú vọ nhìn gốc cây
nào cũng thấy “phản động”, mặc dù đất nước đã thanh bình lâu rồi.
Khi tôi ngỏ ý muốn đi thăm Văn Miếu - Quốc Tử
Giám, Tứ lẩm nhẩm tính:
- Đến Văn Miếu thì phải vòng trở lại ga Hàng Cỏ,
qua phố Hàng Lọng, theo phố Sinh Từ...
Tôi cắt ngang:
- Anh có nói, tôi cũng chẳng biết phố nào là phố
nào. Thôi, tôi nhắm mắt để anh chở tôi đi đường nào cũng được.
Như tên gọi, đó là một khu “miếu” lớn, với lối
kiến trúc cổ xưa, từ thế kỷ XV, trang nghiêm, thanh nhã, gồm một gian thờ Khổng
Tử và môn đệ, một lầu vuông tám mái gọi là Khuê Văn Các, nơi bình thơ của các
sĩ tử, cạnh giếng Thiên Quang mà hai bên tả, hữu thấy dựng hai hàng bia đá khắc
tên tám mươi hai vị đỗ tiến sĩ, qua các triều đại. Trên cổng ngoài cùng có vẽ
hình hai con cá chép theo điển tích “cá vượt vũ môn”, ngụ ý người học trò đi
thi được ví như cá chép phải vượt ba đợt sóng dữ, tại cửa sông, mới biến thành
rồng, chỉ sự thành công tột bực. Chứ không phải, tôi nghe ai kể, các thí sinh
thích ăn cá chép, theo cách hiểu của đa số học sinh XHCN bây giờ. Bước đi, tôi
thấy người bỗng thoát trần, xa rời tục lụy và thực tế tối đen, xấu xí hiện nay,
để lòng nhẹ tênh. Như bay bổng trong không gian và thời gian lồng lộng. Như
nghe tiếng thiết tha gọi vê từ đáy Hôn Dân Tộc thanh cao của bốn ngàn năm văn
hiến và từ những trang Sử Việt oai hùng qua bao dòng đời hưng phế, với Trưng,
Triệu, Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn... những triều đại bị bọn
“đỉnh cao trí tuệ” Trường Sơn chê là phong kiến, lạc hậu, độc tài, mà người dân
vẫn được tự do đi lại, vẫn được ăn no mặc ấm, vẫn được vua chúa thương yêu như
con, vẫn được học hành đến nơi đến chốn theo truyền thống nhân bản, vẫn được
gọi mời tham gia vào công cuộc trị nước và giữ nước. Mà những tiến sĩ, đang
hiện diện trong Văn Miếu kia, được vinh danh và trọng vọng nhờ vào thực tài,
đức hạnh, chứ không bởi văn bằng dỏm, văn bằng lậu, văn bằng tậu được do tiền
bạc và mánh mung, như trong thời kỳ đồ đá, đồ khỉ, đồ đểu hiện nay...
V. Từ giã Văn Miếu, thấy còn dư một tiếng, tôi đề nghị Tứ chở đi xem giếng
ngọc của Trọng Thủy và Mỵ Châu –mà chuyện tình diễm ảo và bi thảm đã ám ảnh, mê
hoặc hồn tôi, từ lúc còn trẻ cho mãi đến bây giờ, hơn bất cứ chuyện tình diễm
ảo và bi thảm nào trong văn chương thế giới, kể cả Tristan et Iseut hayRomeo
and Juliet. Tứ đáp:
- Xa lắm anh ạ, tận mãi Cổ Loa, quận Đông Anh,
phía Bắc, cách Hà Nội 16km, không đi xích lô được, vả lại không kịp giờ lên xe
lửa đâu.
Đành trở lại ga Hàng Cỏ, trước giờ qui định.
Trao tặng những anh giữ-hộ-viên-túi-xách một bịch chuối ép khô mua tại cửa Bưu
điện, và kể sơ về chuyến du hành bằng xích lô. Hai cán bộ đã có mặt. Rồi lục
tục, các đồng tù trở về “trình diện” kịp, hay trước, giờ, vì không ai dại, làm
lỡ chuyến tàu xuôi Nam. Đúng 8 giờ tối, tất cả lên tàu, ngồi trong một toa, do
“trên” (nhà nước) dành riêng, sau khi cán bộ đọc tên và phát cho từng người
giấy ra trại, kèm theo lời dặn dò, hay mệnh lệnh chót, “các anh nhớ thi hành
tốt lệnh quản chế địa phương, và phấn đấu làm ăn tốt, xây dựng xã hội chủ
nghĩa, đừng trốn chạy ra nước ngoài”. Hai tên cán bộ ở lại ga, và chúng tôi
hoàn toàn tự do, từ đây, ít ra trong đêm đó.
Tàu khởi hành trễ nửa giờ. Chạy khoảng một tiếng
thì ngừng lại tại một ga nhỏ, đón khách “nhảy tàu” (buôn bán lậu trên xe lửa)
ra Bắc và trở vào Nam. Đa số là phụ nữ Miền Nam, còn trẻ, biết có một toa tù
cải tạo được thả, họ đem hàng đến gửi, nhét đại phía dưới ghế ngồi, vì qua kinh
nghiệm, tin rằng công an không bao giờ vô lục khám. Chúng tôi thông cảm, để
mặc, và ngược lại họ mua bánh trái đãi đằng để trả công ơn đồng lõa. Vài người,
mà thân nhân còn trong tù cải tạo, đứng nán lại, hỏi han, tâm sự. Và bất ngờ,
tôi được biết trong số có một chị là vợ của một trung úy, đồng đội K1, không
được thăm nuôi, đói, nhưng rất có bản lĩnh, tư cách. Tôi nói nhỏ với chị:
- Ảnh đói lắm. Chị ráng thu xếp ra thăm ảnh một
chuyến.
Chị bật khóc, nước mắt đầm đìa, trả lời:
- Em biết. Và thương ảnh lắm. Nhưng nhà nghèo
quá, phải nuôi đàn con nhỏ nữa. Khi nào dành dụm được chút ít, chắc chắn em sẽ
ra thăm ảnh.
Cảm động, tôi móc từ túi quần được một nắm tiền,
chừng hơn 100 đồng của trại trả lại, kín đáo đưa tặng chị, nói để “mua quà cho
các cháu”. Chị không nhận, và vì tế nhị, tôi không nài ép. Cách đây hai năm,
tình cờ tôi gặp lại anh chị –qua Mỹ theo diện HO, và làm ăn khá giả, con cái
thành đạt– tại nhà một người bạn chung. Sau ba mươi năm, chị nhìn tôi, xa lạ,
không nhận ra là ai, và tôi cũng không nhắc gì về chuyến tàu đêm năm cũ ấy.
Tàu chạy thâu đêm, qua những địa danh lịch sử,
tôi chỉ nghe nói đến mà chưa hề thấy tận mắt, như Hà Tĩnh, quê hương tuổi nhỏ
của đại thi hào Nguyễn Du. Hay Quảng Bình, nơi sinh quán của Tổng thống Ngô
Đình Diệm, với Đèo Ngang nổi tiếng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan và sông Gianh
phân chia ranh giới Bắc Nam giữa quân Trịnh và quân Nguyễn, thế kỷ XVII. Khi
đến Cửa Tùng, An Du Tây, Quảng Trị, quê nội tôi, trước khi tàu qua cầu Bến Hải,
tôi nhìn chăm chú ra ngoài, như một phản xạ, nhưng không thấy gì cả ngoại trừ
một vùng đồng ruộng tăm tối, bao la. Tự nhiên, một cảm giác xa lạ, trống vắng
xâm chiếm tâm hồn. Và thấy đắng chát trong cổ họng... Bởi một nơi không đến bao
giờ, và không có một chút kỷ niệm, dù là quê cha đất tổ, cũng chỉ là một chấm
đen trên bản đồ. Tôi gục đầu xuống thành cửa sổ, muốn khóc. Bỗng nhớ ba tôi
quay quắt, đã mất không lâu trước đó, mà tôi không được gặp mặt.
Ngược lại, tại sân ga Huế, sáng trưng ánh đèn,
một cảnh sinh hoạt náo nhiệt diễn ra, dù đã quá nửa khuya. Khi những em bé bán
bánh, nước trà bắt gặp chúng tôi ngồi la liệt trong toa đặc biệt, biết là tù
“ngụy” trở về, liền báo động cho những đồng nghiệp lớn tuổi, và một đám các bà,
các o chạy túa đến, reo vui: “Sĩ quan cải tạo về kia tề, anh mô cũng đẹp trai
hết, không như mấy cha bộ đội. Thấy các anh cực khổ mà thương chi lạ!”. Vài anh
thò đầu qua cửa sổ mua bánh, chuối, thịt gà chiên, nhưng họ không lấy tiền. Lại
còn, khi tàu chuyển bánh, chạy theo, ném thêm qua cửa sổ...
Sáng hôm sau, tàu ngừng tại ga Nha Trang, lúc 9
giờ. Tôi thuê xích lô trở về nhà. Xuất hiện tại cửa như một bóng ma hiện hình.
Mẹ và Bội Trân đứng sững giây lâu, rồi cả hai ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở. Tôi
hôn lên má, lên tóc Mẹ, và qua vầng trán nhăn nheo và mái đầu bạc trắng, ngậm
ngùi tưởng nhớ dung nhan của Mẹ ngày xưa và tình thương bao la suốt đời Mẹ dành
cho từng đứa con. Tôi nhìn Bội Trân, người em kiều diễm của tôi, sau ngày đất
nước đổi chủ, đổi tên, đã bị trời xanh quen thói má hồng đánh ghen bắt
chịu nhiều nỗi truân chuyên, như người chinh phụ trong Đoàn Thị Điểm. Ôm
em trong tay mà tưởng như ôm một khối tình sầu hóa thân chất ngất, chưa tan, mà
biết rằng em, qua dòng lệ mừng cho tôi, cũng đang khóc nhớ hôn phu –một phi công, vì
em không đi, đã ở lại Sài Gòn sáng 30 tháng 4, để bây giờ vĩnh viễn gãy cánh,
nằm xuống tại một nơi nào trong trại tù Thanh Phong. Bởi em buồn, tủi phận, tôi
cũng thấy hồn mình nát tan, không muốn bộc lộ nỗi vui được thả, không muốn kể
gì về những trại tù đã đi qua... Xem tất cả như một chương đời khổ nạn khép
lại, một cơn ác mộng phải quên. Cho riêng tôi, và cho giùm em gái và những
người vợ tù khác.
VI. Ba mươi hai năm qua, kể từ ngày ấy. Biết bao nhiêu chuyện đời xảy đến.
Từ Mỹ, tôi đã đi thăm nhiều thủ đô lớn, nhỏ trên thế giới. Nhưng vẫn không sao
quên được hình ảnh Hà Nội tuyệt đẹp, mà tôi đã gặp trong sử sách, cùng với hình
ảnh cố đô Thăng Long cổ kính và huyễn mộng qua hàng chục thế kỷ chiến tranh giữ
nước. Thăng Long, hay Hà Nội. Của một Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, rồi
cưỡi thiết mã bay về trời. Của một Lý Thường Kiệt đứng trên sông Như Nguyệt,
sang sảng ngâm bài thơ, được xem là bản tuyên ngôn đầu tiên về chủ quyền quốc gia
Việt Nam, cách đây mười thế kỷ, độc đáo nhất, quyết liệt nhất: “Nam quốc sơn
hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ lai xâm
phạm / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư...”, trước khi xuất trận đánh tan quân
xâm lược. Của một Trần Nhân Tông và các bô lão trong Hội Nghị Diên Hồng, đồng
thanh quyết chiến đến cùng. Của một Trần Hưng Đạo với câu nói, có một không ai
trong lịch sử nhân loại về sự hy sinh tột độ cho đất nước: “Bệ hạ muốn hàng,
xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng” –là danh tướng duy nhất
trong quân sử thế giới đã đánh bại đế quốc Mông Cổ (tức nhà Nguyên), hùng mạnh
nhất lúc bấy giờ, bách chiến bách thắng, mà vó ngựa đã giẫm nát toàn cõi Đông
Âu, Nga, Trung Đông và Đông Nam Á. Của một Trần Bình Trọng, bị bắt, với thái độ
hiên ngang, ngẩng cao đầu trước địch quân: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ
không thèm làm vương đất Bắc”. Của một Lê Lợi với hơn mười năm kháng chiến
nằm gai nếm mật. Của một Nguyễn Trãi với chính sách thu phục nhân tâm diệu kỳ, “Lấy
trí nhân thay cường bạo”. Của một Nguyễn Huệ với những chiến thắng mùa xuân
thần tốc lẫy lừng. Của một Hoàng Diệu, tổng đốc trung liệt, đã tuẫn tiết cùng
chết với thành Hà Nội. Của toàn dân, qua các triều đại, đã sát cánh với vua,
quan, tướng lãnh đánh đuổi bọn Đại Hán xâm lược, mà dù là Ân, Ngô, Tống,
Nguyên, Minh, Thanh xưa kia, hay Mao (Cộng) ngày nay –tất cả đều là kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc.
Cũng như tôi không sao quên được hình ảnh, ngược
lại, điêu tàn của một Hà Nội mà tôi đã gặp vào một ngày mùa xuân 1983, cổ lỗ và
rách nát trong tay giặc Việt Cộng. Dưới sự thống trị của bọn lãnh đạo ma đầu
thay nhau tự phong, ngu dốt, tham tàn, phản bội dân tộc, rước voi về giày mả
tổ, thấy kẻ thù là run như cầy sấy, nhưng đối với dân thì hung bạo, đánh đập,
bắn giết, bỏ tù. Hà Nội trong mắt tôi, ngày xuân ấy và nhất là bây giờ, dưới
xích xiềng giặc Việt Cộng, chỉ là thủ đô của hận thù, của hạ tiện, của xảo trá,
của băng hoại về mọi giá trị đạo đức, xã hội, giáo dục, kinh tế, an sinh và
lương tâm. Chỉ là biểu tượng của một đất nước mà dân nghèo phải đầu tắt mặt
tối, bươn chải kiếm sống, mà học sinh phải đu dây qua sông để đến trường, mà
dân giàu lo ăn chơi, trụy lạc, say xỉn, mà tướng tá và công an được mua bằng
tiền, tự biến thành chó ngựa, cung cúc phục vụ chế độ phi nhân, mà tất cả,
trong những hoàn cảnh sống khác nhau như thế, cũng đều quên đi nhiệm vụ cao cả
do tiền nhân giao phó: đứng lên chiến đấu giữ nước, trước hiểm họa Bắc thuộc do
Tàu Cộng đang mưu toan với chiến thuật mới, mềm dẻo hơn, tinh vi hơn, nghĩa là
bằng chính tay những thằng lãnh đạo Việt Cộng.
Hà Nội ấy, một lần đi qua, tôi sẽ không bao giờ
trở lại, dù chỉ một giờ, một phút, nếu tổ quốc Việt Nam yêu dấu chưa sạch bóng
nội thù Việt Cộng, nếu người dân chưa, hay chưa thể, đứng lên tiêu diệt bọn
lãnh đạo bây giờ, và ném vào sọt rác lịch sử cái chủ nghĩa Cộng sản quái thai,
quái dị, quái đản, đã ngự trị từ hơn ba phần tư thế kỷ trên đất nước tang
thương, bất hạnh này –đã vô phúc sản sinh ra một tên Nguyễn Tất Thành, tức Hồ
Chí Minh, còn bỉ ổi, ghê tởm hơn Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.
VII. Khát vọng
và ước mơ tuyệt vời đó về một Việt Nam tương lai phi Cộng sản, tôi lo, khó
thành hiện thực cho tôi và những ông bạn chiến binh già, trong cuộc đời này.
Thời gian vô tình cứ trôi đi, và bóng đời cứ nghiêng đổ, mà giật mình ngoảnh
lại, thấy chưa làm gì được cho đất nước thân yêu còn mãi quằn quại trong nanh
vuốt Việt Cộng. Có thể không kịp nữa. Họa may, kiếp sau. Nếu Thần Chết không
bắt chúng tôi bỏ lại tất cả mọi hy vọng, khi bước qua bờ tử sinh. Và nếu trongInferno,
thi hào Dante cũng tha, cho những kẻ đứng trước cửa địa ngục, hình phạt nặng nề
nhất, tức là phải mang theo mối tuyệt vọng đời đời. Lasciate ogni
speranza voi ch’entrate(Hãy vứt
bỏ tất cả hy vọng, hỡi các ngươi đang bước vào, iii,1).
Portland,
1 tháng 2, 2016
Kim Thanh
304Đen - Llttm