Bất Chợt Thu Về Đầu Hạ
(Chương Mười Lăm)
Chương
Mười Lăm
Chiều
thứ sáu, tôi đến trường Văn Học dạy hai giờ toán cho lớp đệ nhị, cái công việc
mà tôi đã nhận từ hơn bốn tháng qua sau hôm được anh Đăng giới thiệu cho ông
hiệu trưởng. Anh Đăng dạy ở đây lâu lắm rồi, anh tốt nghiệp sư phạm, dạy toán
rất giỏi, bị động viên vào lính, bị thương ở trận Bình Giã, giãi ngũ với cấp
bậc đại uý. Anh là người con lớn của bà dì năm bên ngoại, tôi gặp anh đôi ba
lần khi về Gò Dầu ăn giỗ bà ngoại nhưng không có dịp nói chuyện nhiều vì những
ngày tháng đó tôi vẫn còn là thằng em nhỏ nhất trong mắt của bà con bên ngoại.
Sau khi dạy xong tôi không bỏ về liền như ngày thường mà nấn ná tán dóc với đám
học trò lớp đệ nhị trong sân. Ngoài đường, chiều chưa xuống hẳn, nắng tuy muộn
nhưng vẫn còn sáng. Đường phố không lúc nào vắng người, tiếng cổng xe lửa trên
khúc đường Lê Văn Duyệt từ từ khép nặng chình chịch chận ngang. Ở phía trên xa
có tiếng còi chuyến xe lửa từ ngoài miền Trung về. Con nít nhà ở hai bên đường
rầy ùa chạy ra đứng chờ, gọi nhau ơi ới. Ra khỏi cổng, Chiêu ngồi trên xe honda
chờ tôi ngay bờ tường. Chắc là có chuyện lạ vì thường ngày ít khi nào Chiêu đến
tìm tôi ở đây chiều thứ sáu. Chiêu làm dấu cho tôi lái xe mà không nói gì cả.
Đến công trường Duy Tân, vào một quán kem ngó qua bên kia trường Luật, hai đứa
chọn cái bàn vắng trong góc, Chiêu nhìn tôi, nhưng chưa nói lời gì, nhưng nét
mặt xem ra có gì đó chừng như quan trọng lắm. Phố chưa lên đèn, trời dịu mát
dần. Lưa thưa bên sân trường Luật vài cô ở lại muộn, tụm hai tụm ba cười nói.
Chiêu mở xách tay, đưa cho tôi lá thư gì đó, bảo tôi đọc đi rồi sẽ nói chuyện.
Tôi mĩm cười, đọc thư. Lại thêm một lá thư nữa của Tường gởi cho Chiêu từ Đà
Lạt, trong thư lần này ngoài những câu thăm hỏi nhớ nhung thông thường, Tường
mở lời xin cưới Chiêu sau khi anh ta tốt nghiệp trường sĩ quan Đà Lạt, bảo
Chiêu hãy trả lời sớm để anh ta còn lo liệu. Cũng trong thư, Tường còn cho biết
tin là khoá anh có thể sẽ ra trường sớm hơn những khoá trước vì nhu cầu chiến
trường đang cần có cấp chỉ huy. Quân Bắc Cộng càng lúc xâm nhập vào Nam nhiều
hơn và đã tung ra những trận đánh lớn trong vài tháng gần đây. Bạn bè lại có
thêm đôi ba thằng tử trận, bỏ đời ra đi một cách tình cờ. Tiếng súng tiếng bom
hình như sát lại gần thành phố hơn trước đây nhưng người ta vẫn sống dù sống
vội vã hay sống chán chường. Con đường trần gian mà ông trời vạch ra vẫn có
người đi người về, đi bao lâu rồi cũng phải về. Tôi bỏ lá thư xuống bàn, ly
nước còn đầy chưa đứa nào đụng tới, cả hai chúng tôi nhìn nhau không biết phải
bắt đầu câu chuyện như thế nào đây. Chuyện của Tường thật ra cứ lẩn quẩn trong
đầu tôi cũng như Chiêu từ bao lâu rồi. Tôi nhìn mông lung ra đường, đèn trên
đường vừa lên, vệt nắng cuối ngày đã tắt ở phía bên kia phố. Một lần nữa Sài
Gòn vào đêm. Vì là chuyện cũ nên thật ra hai đứa chẳng cần phải nói gì, Chiêu
bưng ly nước lên uống một hơi, chút nước đá lạnh của ly sinh tố làm Chiêu chợt
tỉnh. Chiêu mĩm cười giục tôi ăn ly kem kẻo kem chảy tan theo sức nóng cuối
ngày. Hai chúng tôi đồng ý với nội dung lá thư mà Chiêu sẽ viết trả lời cho
Tường nay mai trên đường Chiêu đưa tôi về nhà. Chiêu sẽ cám ơn tình cảm mà
Tường đã dành cho, xin Tường cho Chiêu có thời gian suy nghĩ và dịp tốt nhất là
sau khi tốt nghiệp, chừng một năm mấy nữa, khuyên Tường yên tâm mà học tập.
Tùng đứng thơ thẩn trước nhà cười toe toét chào, tôi thong thả xuống xe, Chiêu
vẫy tay rồi lái xe bỏ đi. Tùng nấn ná chờ tôi chưa chịu ăn cơm, nhà đối diện
lại bắt đầu có tiếng con nít ồn ào giành nhau chỗ ngồi trước sân, chờ coi
chương trình truyền hình buổi tối.
Tôi lặng lẻ về Tây Ninh sáng thứ bảy mà
không nói với ai tiếng nào, cả Tùng cũng không biết tôi đi đâu khi Chiêu và
Thảo Ly qua tìm. Lời Tường viết trong thư cứ vướng mắc đâu đó trong đầu. Cái
buồn nao nao làm tôi chợt dưng nhớ nhà, nhớ Bến Cầu ray rứt. Nhớ đôi mái đầu
bạc của ba mẹ như bông bưởi sau nhà, nhớ chiếc xuồng ba lá của anh chị Thương
nằm nhấp nhô lẻ loi cuối bờ mương ra con rạch nhỏ, nhớ tiếng mưa rớt từng giọt
dài trên mái căn chòi tranh chất củi, ở đó có lửa bập bùng nướng khoai lang
trong những ngày đầu đông, nhớ tiếng ễnh ương khi mất khi còn theo ánh lửa đèn
câu lập lờ ngoài ruộng. Một chút nhớ đó cũng đủ làm tôi phải về Bến Cầu, về để
nhớ để thương và cũng để trốn được cái nghiệt ngã sầu mà Tường vô tình quấy
đọng trong lá thư vô tình vô tội. Về tới Cẫm Giang thì tàu đò cũng vừa qua tới
cho nên tôi về Bến Cầu trời mới quá xế trưa. Chị Năm Thương đi đâu đó từ phía
bên xóm bên kia sông về ngang bến đò thấy tôi la ơi ới. Chị chẳng màng hỏi tôi
tiếng nào, cười một cái rồi bỏ đi trước. Chị đi thật lẹ không cần ngoái lại xem
tôi ra sao. Tôi nhìn theo bóng chị cười một mình. Nắng từ từ dịu đi, bên kia
sông lớn trời xem ra có vẻ sắp nổi giông, mây từng cụm đen kéo về hướng chợ.
Chị năm đứng kế bên ba mẹ tôi ngoài sân trước chờ cười khúc khích. Tôi đi nhanh
vào nhà, ai nấy đều ngạc nhiên không ngờ tôi lại về bất chợt như vậy. Chị năm
lo cơm nước sớm, cả nhà tôi cùng gia đình anh chị quây quầng trong mái hiên
sau. Mùi cá lìm kìm kho xã ớt thơm không thể tả. Cơm nước xong, trời cũng vừa
đổ mưa. Tôi cùng anh em thằng Thiết thằng Tha, con của anh chị năm bắt ghế ngồi
trước hàng ba nhìn trời tán dốc. Vài anh lính nghĩa quân quen từ hướng văn
phòng xã đi ngang vẫy tay chào. Lẻ loi vài tiếng ễnh ương kêu ngoài đám ruộng
gần truông, trời vẫn mưa lưa thưa không nặng giọt. Hai ba căn nhà phía bên kia
đường đã lên đèn. Có tiếng đại bác vọng về từ một hướng nào xa xa, bọn tôi vẫn
ngồi trong bóng đêm vừa xuống qua hiên nhà. Mẹ tôi và chị năm lục đục gì đó
trong bếp. Anh năm từ bên nhà cầm cây đèn dầu nhỏ băng qua sân, nói khẽ với bọn
tôi:
-
Chút xíu mình có chè đậu xanh ăn rồi.
Tôi
thức nói chuyện với ba mẹ tới giữa khuya, đêm nay không có tiếng súng.
Sáng sớm tôi theo Thiết đi bằng xe Honda
qua ngã Trà Cao cho nên hai đứa tới Gò Dầu còn sớm. Hai thằng vào uống cà phê
trong một quán hủ tiếu nhỏ ngay ngã ba ngó qua văn phòng chi khu quận. Trời
sáng dần, bến xe sát bên hàng rào chi khu vẫn chưa có mấy người đi. Gió từ
hướng sông thổi lên lành lạnh và thơm mùi lục bình pha mùi mạ mới cấy.Thiết từ
giã tôi rồi lái xe Honda xuống chợ quận.
Chuyến xe từ quận về Sài Gòn vừa rục rịch mở máy, khách chưa có mấy
người nên tôi tìm chỗ ngồi cho vừa ý mình không khó lắm, nắng lên thật nhanh từ
phía bên kia sông sáng rực mấy nhịp cầu màu vôi trắng. Ở một phía nào đó cuối
phố bắt đầu có tiếng chuông chùa thong thả đổ.
Thuyên
Huy
(Còn
tiếp)
No comments:
Post a Comment