Mùa Xuân trong ký ức
– Na, lấy cho ôn cái ghế đẩu cháu!
Đang làm dở bài toán đố, Na bỏ viết xuống, lật đật
bưng ghế chạy ra. Đằng trước hòn non bộ, cạnh gốc mai già lão, ôn nội đang nhặt
lá. Trên cái nền gạch tàu đỏ sẫm, những lá mai màu vàng nâu nằm rải rác.
– Ôn nội nhặt lá mai a?
– Ừ, hôm ni rằm tháng chạp rồi. Năm ni trời khô
hanh, nhặt chừ mới hy vọng nở đúng tết cháu nờ. Khi mô cháu được nghỉ?
– Ngày ông Táo về trời ôn ơi. Cô giáo nói lớp của
cháu phải học nhiều mới hy vọng đậu vô đệ thất trường công.
– Ừ, ráng vô được trường Thành Nội cho ba mi vui.
Tội nghiệp, năm ni biết có về ăn Tết được không… Năm mô cũng hứa …hứa mà mô có
thấy…
Ôn nội bỏ dỡ câu nói, đứng lên cái ghế thấp, vói
tay bứt mấy nhánh lá trên cao. Cây mai có tuổi đời bằng ba Na. Ôn nội kể khi ba
cất tiếng khóc đầu tiên trong tay bà mụ cũng là lúc ôn đặt bầu mai xuống hố.
Qua thời gian, gốc cây sù sì như một con trăn lớn vươn lên năm cành mà ôn đã bỏ
công uốn theo thế ngũ thường: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Na biết trong đầu ôn nội đang nghĩ đến ba, người
con trai trưởng của dòng họ Hà Thúc đóng quân tận đâu trên Dakley, Dakpao… “Cái
tên chi mà đọc muốn trẹo quai hàm”. Ôn hay cằn nhằn mỗi khi nhận thư ba từ tay
người bưu tá.
Na cũng nhớ ba lắm. Đứa con gái lên chín tuổi nhưng
số lần gặp ba chỉ rải rác trên mười đầu ngón tay. Hai cha con gặp nhau qua thư
từ nhiều hơn. Nhất là từ khi Na biết đọc, bao giờ ba cũng giành cho Na một đoạn
trong những lá thư gởi về nhà. Mạ thường thở dài khi nghe o Hường bóng gió “Chị
lo có con trai đi. Anh Nghĩa là trưởng tộc đó!”.
Thât sự, ba mạ Na cũng sống bên nhau liên tục được
ba năm. Đó là thời gian mạ theo ba sau ngày cưới. Đơn vị ba thuộc Liên đoàn II
Biệt động quân. Mạ lên tận tỉnh Pleiku xa xôi, thuê nhà ở, chờ ba về sau những
cuộc hành quân. Khi đó ba đóng ở Suối Đôi. Mạ kể lúc bấy giờ Pleiku hoang sơ
lắm, đàn ông người Thượng còn mang khố và cà răng căng tai. Những ngày cuối
tuần , họ ra chợ với gùi măng sau lưng, tay cầm thêm những chú sóc hoặc chim
két đủ màu bán lấy tiền mua gạo. Và Na được hoài thai ở xứ “nắng bụi mưa bùn”
này.
Nhưng đơn vị ba di chuyển liên miên khắp vùng Cao
nguyên Trung phần. Bà nội đau yếu và mất, o Hường đi lấy chồng dưới An Cựu, mạ
về Huế sinh nở vừa để chăm sóc ôn nội và ổn định lâu dài. Hằng năm, những lần
về phép của ba khi có khi không. Nhất là dịp tết nhất, bao giờ tiểu đoàn cũng
trực chiến 100%. Biết chắc ba khó về nhưng Na vẫn chắp tay cầu khẩn “Lạy trời!
Cho ba về với con.”
***
Ngày 27 tháng Chạp, Na ngồi coi mạ vớt những lát
gừng mới luộc qua một cái rổ cho ráo nước. Trên lò than bên cạnh, thau mứt bí
đang xên. Những thỏi bí bằng ngón tay út trong ngần sôi lục ục, mùi đường bốc
lên thơm ngào ngạt. Năm nào mạ cũng làm nhiều mứt để ôn nội uống nước trà sáng
và gởi cho ba ăn tết muộn. Thẩu dưa món đang bung dần những cánh hoa đu đủ, cà
rốt mạ tỉ mỉ cắt tỉa hôm trước. Ở nhà trên, ôn nội lúi húi dọn bàn thờ. Ngoài
cổng, có tiếng lao xao rồi giọng o Thơ nói vói qua hàng chè tàu cắt hình chim
phượng:
– Mạ con Na ơi! Ba hắn về nì! Ui cha, cái thằng đen
như củ súng…
Ba về? Hai mạ con lật đật chạy ra. Ba thiệt rồi! Ba
đang đứng với chú Long hàng xóm, người bạn thời nhỏ cùng đá dế bắn chim. Chú
làm bên Ty Cảnh sát Gia Hội. Chú nói:
- Thôi vô đi cho cả nhà mừng. Thong thả hai đứa
mình nhậu nhẹt. Mồng một tau ra trực. Kỳ ni ráng kiếm một thằng cu cho vui cửa
vui nhà.
Ba quay lại, bế xốc Na lên rồi một tay quàng lưng
mạ đi vô. Ba cao to trong bộ quân phục da beo, ba lô cộm sau lưng, mũ nâu đội
đầu, ba bông mai đen trên cổ áo. `Mạ nửa cười nửa khóc: “Anh về thiệt a!”. Ôn
nội đứng trên thềm, mặt tươi rói, chòm râu bạc phất phơ :
– Hèn chi sáng ni ôn nghe con chim kêu “Khách!
Khách!”
Mạ hốt hoảng :- Ui trời! Cái thau mứt… rồi lật đật
xuống bếp.
Chiều nớ, nhà Na vui như có hội. Cả cái xóm nhỏ kéo
tới hỏi thăm “thằng Nghĩa Cọp đen về phép”. Mạ chạy vội ra chợ Xép mua thêm
thức ăn. Ôn Nội châm trà liên tục. Lòng Na reo vang theo khúc nhạc Xuân trong
Radio “Mừng Xuân nâng chén ta chúc nơi nơi…”
Từng làn mưa bụi rơi rơi. Na thiếp ngủ trong vòng
tay mạnh mẽ của ba .
****
Bao năm đã trôi qua nhưng trong đầu Na vẫn nhớ như
in những ngày Xuân Mậu Thân ấy.
Ngày 28 ba giúp ôn nội chà bộ lư đồng trên bàn thờ
sáng bóng, tỉa lại hàng chè tàu trước ngỏ. Na lẩn quẩn bên cạnh cho ba sai vặt,
lâu lâu lại rúc đầu vào để được hôn lên má, để tận hưởng “mùi ba” và để nghe ba
huýt sáo bài ca muôn thuở “Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn…”
Ngày 29 ba chở Na ra Phu Văn Lâu coi chợ hoa và mua
hai chậu cúc đại đóa về đặt hai bên bậc tam cấp. Buổi chiều, cả nhà ngồi gói
bánh tét trên cái phản dưới nhà ngang. Ba không quên gói hai cái bánh ú nhỏ
dành riêng cho con gái yêu.
Ngày 30 cả nhà lên núi Ngự Bình thắp nhang mộ bà
nội rồi về nhà chuẩn bị cúng Tất niên. Bửa tiệc cuối năm thật ấm cúng. Có nhà o
Hường bên An Cựu sang, có chú Long, bác Năm hàng xóm… Cả con đường Ông Ích
Khiêm dưới chân cửa Thượng Tứ sực nức mùi nhang trầm. Chú Long nói: -“ Ngày
mồng hai, mình rủ nhau chơi xì lát coi đứa nào hên… Nhớ hồi thằng Nghĩa chưa đi
lính, hắn chơi bài ăn cả xóm rạt gáo…”. Câu chuyện kéo dài đến xế chiều. Đã
nghe những tràng pháo nổ sớm. Ba cũng treo sẵn một dây pháo trước cửa. Không
khí tết tràn ngập mọi nhà. Tiếng pháo nổ đì đùng.
Ngày mồng một, ba mạ thủ trại cho ôn nội đi thắp
nhang nhà thờ họ Hà và thăm bà con. Ở Huế, con cháu ngày mồng hai mới được ra
đường. Cây mai bắt đầu bung cánh. Ba đếm được mấy chục cái hoa có sáu cánh. Ba
mừng tuổi cho Na những đồng bạc mới trong phong bao đỏ và cười, nói với mạ -
“Còn em lì xì cho anh một thằng cu”. Mạ đỏ mặt xấu hỗ…"
Buổi trưa cả nhà ăn cơm chay. Ôn nội khen năm ni
trời hửng, chắc mưa thuận gió hòa rồi ngâm nga sấm Trạng Trình “Thân Dậu niên
lai kiến thái bình”. Ba thưa với ôn ngày mai cho cả nhà đi chúc tết bên họ
ngoại và bạn bè cũ vì ngày mồng năm hết phép. Ôn nói : – “Về ăn tết được là vui
rồi. Đã là chỉ huy thì phải làm gương cho lính tráng.”
Đêm mồng một trời tối thui, mưa xuân rắc những hạt
như bụi mỏng. Ôn nội thắp thêm nhang trên bàn thờ và giục cả nhà đi ngủ để ngày
mai lấy sức đi chơi Xuân… Giấc ngủ đến với Na êm đềm, không mộng mị …
Na tỉnh dậy trong cái lay nhẹ của ba. Ba thì thầm:
- “Ôm cổ, ba cõng con!”
Trong cơn ngái ngủ, Na vẫn nhận ra ba đưa mình ra
nằm trên chiếc chiếu dưới bộ ngựa gõ dày. Ba không quên trải cho con gái cái
chăn ấm. Tiếng nổ ran, lâu lâu lại nghe những tiếng “ầm, ầm” vang dội. -“Ai đốt
pháo dữ rứa ba?” – “Tiếng súng đó con”.
Căn nhà chìm ngập trong bóng tối. Trên bàn thờ vẫn
còn chấm nhang đỏ le lói. Mạ lo lắng: – “Đánh nhau à anh? Hưu chiến mà?”. Ba
không trả lời, lẩm bẩm: – “ Tiếng tiểu liên AK 47…Tiếng thượng liên… Chúng nó
tấn công Huế rồi…”
Bấy giờ thì tiếng súng vang đâu mạn An Hòa và Hữu
ngạn thành phố. Na nghe rõ cả tiếng rít của hỏa tiển 122 ly bay qua mái nhà.
Qua cửa bức bàn, bầu trời lóe sáng bởi những tia đạn đan chéo. Căn nhà rung
lên. Na nắm chặt tay ba. Ba nói với mạ: – “Chắc anh phải làm một cái hầm cho
nhà mình trước khi trả phép”.
Trời tờ mờ sáng. Tiếng súng có ngớt hơn nhưng xóm
nhỏ yên lặng một cách đáng sợ. Ngoài đường vắng ngắt. Nhà ai cũng kín cửa. Mạ
nói: – “Để con xuống bếp nấu nước cho ôn cúng sớm”. Ôn gạt tay – “Để coi tình
hình ra răng đã”. Mạ cắt những lát bánh tét cho cả nhà ăn với dưa món nhưng ai
cũng quấy quá cho qua bữa. Ba chất thêm bộ bàn ghế chắn chung quanh cái hầm bất
đắc dĩ. “Coi như hết tết!”. Na nghĩ thầm.
. Rồi bất chợt, xế chiều tiếng ầm ầm nổ vang bốn
phía. Từ ngoài cửa Thượng Tứ, Đông Ba, trong Đại Nội, bên tê sông Hương…Mái
ngói hàng xóm rơi sàn sạt. Ba nói với ôn nội: – “Ngó bộ đánh lớn rồi ôn… Đó là
tiếng phóng lựu B40 của chúng nó… Sao nghe tiếng súng Carbin M1 của mình thưa
thớt quá!…”. Điện tắt tối om. Không ai dám thắp đèn. Sau vườn nhà Na nghe tiếng
chân chạy rầm rập, tiếng “chóc…chóc” của loại súng gì nghe rất lạ… Ba ôm chặt
Na trong bóng tối… Giấc ngủ của đứa bé mới lên mười tuổi được một ngày lâu lâu
lại giật thột vì tiếng nổ…
Na tỉnh dậy vì tiếng thút thít của mạ : – “Làm răng
bây chừ anh. Tụi hắn chạy ngoài đường. Đông lắm, em thấy rõ ràng”. Ôn thở dài
lo lắng : – “Nhè Tết nhất mà đánh nhau. Đồ vô hậu!”. Ba nói : – “Chắc anh phải
tìm cách vô trại Trần Cao Vân trong Mang Cá”. Mạ nói: – “Anh đừng đi. Nguy hiểm
lắm. Em sợ…”. Một ngày dài lại trôi qua.
Sáng mồng bốn, ngoài đường ồn ào rồi tiếng loa vang
lên : “Đây là tiếng nói của Liên Minh Mặt trận Giải phóng Miền Nam… Quân ta đã
hoàn toàn làm chủ thành phố Huế… Đồng bào ai ở nhà đó… Ôn thất thanh “Thôi rồi
con ơi!”. Ba nghiến chặt răng.
Ba giờ chiều mồng năm, bên nhà chú Long nghe có
tiếng khóc òa. Ôn nội dòm qua cái chấn song :- “Chúng hắn bắt thằng Long rồi.
Chắc ai chỉ điểm… Con ơi! Trốn đi. Mãnh hổ nan địch quần hồ…”. Ba leo lên rầm
thượng, tay cầm khẩu súng Colt. Mạ nói – “Em lạy anh, anh đưa cho em…”
Đêm xuống. Cả nhà hầu như không ai ăn uống gì. Mạ
pha cho Na một ly sữa nhưng miệng Na đắng ngắt. Cô bé hình dung ra một cái gì
đó nghiêm trọng đang diễn ra với nhà mình, với mọi người, với Huế.
Ba nhảy xuống, đưa tay phủi mạng nhện trên áo: –
“Con phải đi thôi ôn à! Ở đây thế nào cũng bị bắt. Một liều ba bảy cũng liều…
Con đi tìm đồng đội chơi lại tụi nó”. Mạ nói – “Làm răng anh đi được. Chỗ mô
cũng có tụi hắn”. – “Anh sẽ lần vô Ngã tư Âm Hồn, qua đường Nguyễn Hiệu, qua hồ
Tịnh Tâm. Chắc chắn chúng nó không bao giờ chiếm được Mang Cá, đầu não của Sư
đoàn I…”. Ôn thở dài – “Biết như thế ni thì chẳng mong con về ”. Ba mặc thêm
một cái áo thun dài tay, áo khoác xanh bên ngoài. Mạ bịn rịn – “Thôi anh ơi, ở
lại đây sống chết có nhau…”. Ba cương quyết – “ Anh không thể ngồi một chỗ để
chúng bắt ”. Mạ nước mắt vòng quanh.
Ba hôn lên hai má Na hàng chục cái rồi ôm mạ nói –
“ Đừng lo cho anh. Ở nhà chăm ôn và con. Chuẩn bị sẵn một số vật dụng cần
thiết. Nếu thấy không an toàn thì chạy qua nhà o Thơ, bên nớ có cái hầm bao
cát”. Ôn nội mở cửa nhà bếp, dòm quanh năm phút rồi vẫy ba. Bóng ba khuất vào
đêm tối sau vườn…
Trưa mồng sáu, có tiếng kêu mở cổng. Năm người xuất
hiện trước hiên nhà. Họ đều mặc đồ vải Tô Châu đen, đội mũ tai bèo, khoác súng,
hai người đeo băng đỏ. Một người giọng Bắc lên tiếng: – “ Thằng đại úy Ngụy
trốn đâu? Mau ra trình diện chính quyền Cách mạng”. Ôn nội bình tĩnh trả lời: –
“ Dạ, mô có ai. Nhà chỉ có ông già con nít…”. – “Ngoan cố. Có người thấy hắn về
phép mấy hôm nay”. – “Dạ, hắn có về. Nhưng đã đi cúng nhà thờ họ dưới La Chữ
hôm mồng một”. Người cầm súng cắt ngang: – “Các đồng chí vô kiểm tra. Coi
chừng. Lũ lính rằn ri này ngoan cố lắm!”.
Cà toán kéo vô nhà sục sạo. Mạ ôm Na đứng nép một
góc nhà. Một tên leo lên tận trên rầm thượng kiểm tra. Hai tên kéo xuống nhà
bếp, lui tận sau vườn dòm ngó.
Mười lăm phút sau họ kéo đi sau khi ném vào mặt ôn
nội cái nhìn hăm dọa. Mạ thở ra: “Mô Phật!”.
Súng nổ dồn dập. Có tiếng máy bay trực thăng trên trời.
Rồi những tràng rốc két bắn xuống dữ dội. Ôn nội nói: – “ Chạy qua nhà o Thơ
thôi con!”. Mạ dắt tay Na, tay khác ôm một cái bao băng qua sân. O Thơ kéo hai
mạ con vô hầm thì thào: – “Thằng Nghĩa thoát không? Chúng bắt nhiều người lắm.
Túi qua, tau thấy buộc cả dây trước đường. Ai ngờ thằng thợ cúp là Việt cộng
nằm vùng. Ghê thiệt”.
Cả mấy ngày trời hai gia đình toàn ăn bánh tét nóng
cả ruột. Mạ làm liều ra khỏi hầm nấu cơm vắt thành từng nắm nhỏ. O Thơ lui sau
vườn vơ vội mấy cây cải nấu canh. O chạy vô nói : - “Mạ cha ui! Hắn treo cờ
trước cửa Ngọ Môn ngó rõ mồn một. Chắc còn đánh nhau dữ. Cơ chừng ni biết chạy
đi mô trời!”
Na dòm lên cuốn lịch mấy ngày không ai xé tính
nhẩm: Hôm ni là ngày mồng mười. Đáng lẽ hôm ni mình đã đi học, đã khoe cái kẹp
tóc mới, khoe tiền mừng tuổi với tụi con Linh, con Chi… thì bỗng nghe tiếng “ầm
ầm” vang dội. Mấy cái ly trên bàn lăn long lóc, thằng Tí con o Thơ khóc thét…
Mười lăm phút sau bác Năm chạy vô – “Cầu Trường Tiền bị giật sập rồi. Bên Quốc
gia sắp phản công. Chạy mau . Ở đây bom thả chắc chết hết …” – “Chạy mô chừ?” –
“Thì cứ chạy đi rồi tính…”
Cả hai gia đình kéo nhau ra đường. Mới có mười ngày
mà khung cảnh đã tan tành, đổ nát. Những bóng người lếch thếch tay xách nách
mang, những nét mặt thất thần…Trên con đường ra chợ Xép, xác người chết nằm la
liệt, Na nhắm chặt mắt không dám nhìn. Tiệm vải đầu đường Mai Thúc Loan nghi
ngút khói. Ra cửa Đông Ba, năm tay du kích ngăn lại nhưng o Thơ cứ đẩy mấy đứa
nhỏ ra trước “Cho tụi tui đi tránh đạn mấy chú nờ. Ba mấy đứa chết trong xóm
rồi…”. Ngó lên đường Phan Bội Châu, dãy phố sang trọng đổ sụp. Bác Năm chụp cái
nón xuống mặt, hai tay bồng hai đứa con dẫn mọi người chạy ra Hàng Bè đi xuống
phía Bao Vinh…
Lại gần mười ngày ăn nhờ ở đậu trong nhà mạ o Thơ.
Hai con mắt mạ trõm lơ vì lo cho ba không biết bây chừ ở đâu. Ôn ngoại cứ thở
ra. Máy bay thả bom phía thành phố, khói lửa bốc lên nghi ngút. Na hình dung ra
ba đang chiến đấu ở đó. Ngày 22 tháng giêng, phía An Hòa vòng vô Bao Vinh xuất
hiện những toán lính da beo. Ôn nội nghẹn ngào: – “Quân ta…Quân ta… Sống rồi …
Con ơi!…”
Những người lính cọp đen thuộc tiểu đoàn 21 Liên
đoàn I Biệt Động Quân áo quần vương mùi thuốc súng. Họ cung cấp cho dân chúng
những bịch gạo sấy, thịt hộp rồi kéo quân đi. Bác Năm thì thào: – “Lính ôn Võ
Vàng đó. Lính ni đánh ác chiến lắm!”. Nghe nói sau đó mấy ngày, chính họ là
những người tái chiếm Gia Hội và cắm những lá cờ VNCH đầu tiên lên phía Chi
Lăng. Sau hơn hai mươi ngày, Na được ăn chén cơm có mùi thịt… Lá cờ VNCH phấp
phới trên kỳ đài. Mạ thở ra – “Sắp được về nhà rồi!” Na nghe mừng húm.
Nhưng cũng phải mươi ngày sau đám người tản cư mới
được trở vô thành phố. Mạ vừa đi vừa dòm xem thử trong những toán lính đang
chốt ven đường có dáng ba không. Vạt chợ Xép gần như thành bình địa. Một đoạn
thượng thành đổ sụp. Nhà bếp o Thơ tan nát, một quả bom rơi đúng sau vườn. Nhà
ôn nội một mái sạt góc, hòn non bộ giữa sân bể tan, tượng ông tiên đánh cờ văng
ra xa mất tiêu cái đầu. Ôi! Hòn non bộ , thế giới kỳ bí tuổi nhỏ của Na với
những hang động, ngõ ngách. Cây lão mai bật gốc nhưng ở một nhánh nhỏ vẫn còn
sót lại mươi bông hoa. Một màu vàng tàn tạ trên sự hoang tàn, đổ nát.
Vừa đặt cái bao xuống, mạ đã nói với ôn nội – “Để
con vô Mang Cá tìm nhà con!”. Ôn nội trấn an : – “Đang lúc lộn xộn, đàn bà con
gái biết chi việc quân sự. Thế mô hắn cũng ghé qua nhà coi ngó vợ con”. Cả nhà
phụ nhau dọn dẹp tạm bợ cho gọn mắt. Mấy người hàng xóm cũng lần lượt trở về
xúm lại hỏi thăm tin tức. Thím Long khóc òa: – “Tụi hắn bắt chồng con lúc chưa
có một hột cơm vô bụng. Chừ không biết ở mô mà kiếm… Anh ôi là anh…”. Bác Năm
nói có một gia đình xóm Âm Hồn chết trụm cả nhà, chó kéo từng miếng thịt đi
khắp xóm. Ông Tăng Duyệt giàu nứt đố đổ vách bên đường Trần Hưng Đạo, chủ nhà
xuất bản Tinh Hoa, cũng nằm phơi thây trước chợ Đông Ba. Chuyến ni Huế e “Mười
người mất bảy còn ba”. Ôn nội chùi sơ trên bàn thờ rồi thắp bó nhang còn sót
lại trong đống đổ nát. Mùi hương thơm làm buổi chiều thêm ảm đạm.
Hai ngày rồi ba ngày, bốn ngày… bóng ba vẫn mù tăm.
Ôn nội không giấu nổi sự bồn chồn. Mạ đứng ngồi không yên, tất bật đi dò la tin
tức. Mạ cứ lần theo con đường ba nói hôm trước. Từ Ông Ích Khiêm ra chợ Xép,
vòng qua Mai Thúc Loan rẽ vào Đinh Bộ Lĩnh vô Cầu Kho…Mạ đi và đi, mòn đàng
chết cỏ, lầm lụi sáng chiều rồi trở về cúi mặt khóc thầm. Đơn vị cử người ra
hỏi thăm, ông Đại úy xử lý thường vụ nhìn cảnh nhà hoang vắng cũng chỉ biết thở
dài… Mạ còn nghe lời người ta, dắt Na đi coi bói ở cô Thanh Ròon trong Thành
Nội. Người đàn bà ốm nhom ốm nhách thắp hương khấn vái trước bàn thờ với những
hình ảnh kỳ bí và mươi phút sau thở dài nhìn mạ con Na nói khẽ : – “Rồi sẽ có
tin. Lành ít dữ nhiều”. Chiều đó mạ bỏ cơm, nằm bệt. Hai tuần sau, một anh
thanh niên đường Hàn Thuyên ghé tới nói có thấy ba trong đám người bị lũ áo đen
bắt giải đi. Anh ta nhận ra vì ba là bạn của ông chú lúc nhỏ hay qua leo cây
nhãn nhà anh. Cả nhà nghe nhưng không ai muốn tin đó là sự thật…
Huế đổ nát tang thương. Công binh bắc cầu phao qua
sông Hương. Cây cầu Trường Tiền gãy nhịp đập vào mắt mọi người nhức nhối. Na đi
học. Trong lớp nhiều bạn chít khăn tang. Một số bạn giàu có theo gia đình bỏ
Huế mà đi. Ngày đầu tiên, cô trò nhìn nhau ngơ ngẩn.
Những cái hố chôn người bắt đầu được phát hiện. Ở
Phú Thứ, trên Cầu Lòn, bên sân trường Gia Hội…Mạ tất tưởi đi theo thím Long , người
đầy mùi dầu khuynh diệp Bác sỹ Tín, lúc về không ăn nổi cơm, gầy rộc. Ôn nội
trở mình với những tiếng thở dài trong đêm…Cả thành phố ngập trong màu trắng
của những bộ đồ xô gai. Hương đèn, vàng bạc trở thành mặt hàng bán chạy. Nhà
nào cũng có người chết, người mất tích…
Mới sáng sớm, o Thơ chạy vô nhà kêu hớt hãi : – “
Chạy xuống Bãi Dâu coi. Người ta mới đào lên mấy chục xác tề!”. Mạ lật đật xỏ
tay vô áo dài chạy đi. Không hiếu sao Na cũng chạy sau mạ. Ôn nội đang cột lại
cổng ngỏ cũng bỏ đó….
Cái trại dã chiến được dựng lên bằng những tấm bạt
quân đội. Đám đông vây quanh. Tiếng khóc hờ thảm não của những người đàn bà
vang thê thiết. Một dãy dài xác người được đưa từ chiếc hố sâu nằm trên đất,
mặt phủ những tờ giấy trắng. Mùi tử khí bốc lên. Mấy ông phu đào huyệt đặt
những di vật của người chết ở trên đầu cho thân nhân nhận dạng. Một chiếc bật
lửa hiệu Zippo, một cây bút bic, một cái thẻ kiểm tra cáu bẩn… Mạ nhào vô, lật
từng tờ giấy che mặt rồi lại lao ra. Mặt mạ trắng bệch nhưng lạnh căm. Những
cái xác… rồi những cái xác…Tất cả đều bị trói thúc ké, bị đập sau gáy… chất
chồng nhau trong hố.
Một ôn phu kêu lên: – “Có thẻ bài trên cổ xác áo
xanh tề! Lấy ra coi.” Ôi! Cái áo khoác màu xanh ba mặc trong đêm ra khỏi nhà
định chạy vô trại Trần Cao Vân, cái thẻ bài có tên ba và số quân cùng loại máu
O Rh +. Ôn nội, mạ và Na ào tới.
Ba ứa máu. Dòng máu đen kịt từ mũi, miệng trào ra
chảy xuống nền cát ẩm. Mọi người chung quanh thì thào: “Gặp đúng người thân rồi
đó…” Mạ rú lên : “Anh ơi anh!” rồi ngã lăn ra, hai tay quơ quào vô thức trên
cát. Nước mắt đứa con gái chảy quanh nhưng Na không khóc lớn tiếng. Na nhìn ôn
nội mặt nhăn nhúm, lặng lẻ phụ những người phu tháo chiếc dây trói từ cổ tay,
lau đất cát dính trên người ba, chuyển ba vô cái hòm vừa được đưa tới. Cô Nữ
trợ tá quân đội dìu mạ ngồi dậy và cả nhà cùng ba được đưa đi trên một chiếc xe
nhà binh…
***
Từ đó Na vĩnh viễn mất ba. Không còn những dòng thư
ngọt ngào, không còn ai để ngóng đợi. Mạ cầm trong tay cuốn sổ quả phụ, ba
tháng một lần đi qua Ty Ngân khố lãnh tiền tử tuất. Ôn nội thỉnh thoảng vuốt
tóc Na : – “Tội nghiệp cháu tui, mồ côi mồ cút…”
Mạ xin làm thư ký bên Tòa Hành chính Tỉnh, ngày
ngày đi xe đạp qua cầu phao, chiếc khăn tang phất phơ trong gió. Cuối năm, Na
thi đậu đệ thất trường Thành Nội nhưng không cảm thấy vui. Ôn nội thắp nhang
trên bàn thờ : “Con có linh thiêng, phù hộ cho cháu”.
Những mùa Xuân tiếp tục đến rồi đi. Cả thành phố
ngào ngạt hương khói trên bàn thờ đặt ở trước nhà, ngoài đường. Có lẽ không có
nơi nào trên đất nước buồn như Tết Huế. Nhà mô cũng cúng, nhà mô cũng có tang.
Cây cầu Trường Tiền được sửa lại nhưng không còn nguyên vẻ đẹp cũ. Xác chú Long
vẫn chưa tìm ra… Nhìn ảnh ba trong bộ quân phục, nhìn dáng vẻ buồn bã của mạ,
Na quyết tâm học thật giỏi. Năm nào Na cũng được lãnh phần thưởng danh dự toàn
trường. Cô Hiệu trưởng Tôn Nữ Tiểu Bích tuyên dương em học sinh mồ côi học giỏi
dưới cột cờ. Ba có biết để mừng cho Na?
Sức khỏe ôn nội ngày càng sa sút. Thỉnh thoảng o
Hường từ An Cựu lên thăm ôn rồi ghé tai thì thào chi đó. Na không nghe rõ nhưng
ôn nội có vẻ cáu giận: – “ Trai hay gái thì cũng là cháu tau, giọt máu của
thằng Nghĩa. Đừng nhiều chuyện…” O Hường sầm mặt xuống, háy mắt nhìn Na rồi bỏ
đi. “Còn cha gót đỏ như son. Một mai cha chết gót con đen sì ”. Chưa bao giờ Na
thấm thía câu ca dao đến thế.
Một buổi tối, ôn nội kêu hai mẹ con lại gần bộ ván
ngựa nơi ôn nằm rồi nói khẽ: - “Dạo ni ôn thấy trong người không được khỏe… Ôn
cũng trên bảy mươi. Chết được rồi nhưng nghĩ thương dâu hiền cháu thảo… không
đành”. Mạ òa khóc : – “ Ôn đừng nghĩ bậy. Ôn phải sống với mạ con con…” Ôn rút
trong túi áo ra một gói nhỏ dúi vào tay mạ: – “Có chút ni con giữ lại cho cháu,
cố gắng nuôi con ăn học nên người…” Na ứa nước mắt thương ôn.
Rồi ôn nằm liệt như một cành cây khô hết nhựa. Na
ngồi bên ôn đút từng muỗng sâm nhỏ. Ôn thở những làn hơi nhẹ như gió thoảng. O
Hường và chồng lên thăm, lấy chìa khóa trong túi ôn mở tủ lục lọi, tìm tòi… Và
một buổi sáng ôn nhẹ nhàng ra đi trong những cơn mưa lê thê tháng mười, trên
khóe còn vương hai giọt nước mắt.
Đám tang ôn hầu như cả xóm đều có mặt. Ôn nằm cạnh
bà nội trên vạt đất đã được chọn sẵn từ trước trên Ngự Bình. Còn mộ ba Na lại ở
Nghĩa trang Ba Tầng dành riêng cho những nạn nhân Tết Mậu Thân. O Hường khóc ơi
là khóc, kể lể : – “ Cha ui! Cha mất rồi lấy ai hương khói thờ tự khổ lắm cha
ui!…”. Bác Năm nạt : – “Mi có cho ôn nằm yên không? Đám tang mà còn cạnh
khóe…”. Mạ lặng lẽ lau những giọt nước mắt.
Những buổi tối hai mạ con nằm ôm nhau trong căn nhà
rộng.Tiếng thằn lằn chắc lưỡi trên trần nhà. Mạ thì thầm : – “ Gia tài của ba
mạ là con gái. Mạ bây chừ chỉ còn con…” rồi khấn thầm với ôn, với ba phù hộ cho
hai mạ con mạnh khỏe, chân cứng đá mềm…Những nén nhang lóe sáng trên bàn thờ
như chứng giám.
Thời gian nhanh như một cái chớp mắt. Na lớn lên, qua
bên kia sông Hương học đệ nhị cấp trường Đồng Khánh. Mái tóc bum bê đã được để
xõa ngang vai. O Thơ trầm trồ: – “Mi giống hệt mạ mi thời con gái. Gắng học cho
mạ nhờ. Có nhiều mụ chồng chết ba bảy hăm mốt đã đi lấy chồng. Không phải như
mạ mi mô đó”. Na biết mạ còn đẹp. Bạn bè hay khen cái dáng nhẹ nhàng, thanh
thoát của mạ. Tóc mạ vẫn đen nhánh, đi ngoài đường có người tưởng hai chị em.
Những ngày tết nhất, kị quảy, o Hường lên thắp nhang hay nói bâng quơ: – “Khi
mô chị có chi vui, nhớ báo cho tui sắp xếp công việc nhà. Tui nghe người ta nói
có ôn ni ôn tê theo chị tề. Chị nhớ giữ ý tứ. Chó đâu chó sủa lỗ không…” Na
ghét cay ghét đắng những câu châm chích của o Hường nhưng mạ cứ lặng yên.
Những lúc rảnh rỗi, mạ thường kể cho Na nghe chuyện
ba mạ gặp nhau, yêu nhau như thế nào. Ba lúc nhỏ nghịch thấu trời. Từng bơi bên
ni qua bên tê sông Hương trước Phu Vân Lâu, từng leo trộm nhãn dọc hai bên
đường trong Tử Cấm Thành, từng lấy áo dài của mệ nội mặc nhát ma mấy o đi gánh
nước đêm… nhưng ba cũng nổi tiếng học giỏi nhất xóm. Ba trốn ôn mệ tình nguyện
đi Sỹ quan Đà Lạt khi thi đậu tú tài. Ra trường có mười ngày phép về gặp mệ, bị
mệ đấm thùm thụp vào lưng còn ba nhấc bổng mệ nội trên hai tay đi một vòng xóm
trong tiếng cười của bà con. Ba chững chạc hẳn lên. Nhiều cô ưng ba nhưng ba
chỉ để ý đến mạ, người con gái nhà ở bên hồ Tịnh Tâm, có mái tóc dài ngang thắt
lưng. Câu tỏ tình của ba với mạ là : “Lấy lính cực lắm, em có chịu thì tui về
thưa với ba mạ đi dạm?”. Na cười hỏi “Rồi mạ nói răng?”. Bây chừ kể lại mà mạ
còn đỏ mặt: – “Nói chi được mà nói!…”. Trong lòng Na ước mơ rồi tương lai cũng
có một chàng trai tuấn tú, kiêu hùng như ba sẽ đến với mình… Nhưng trước mắt là
phải học cho giỏi như ước nguyện của ba mạ. Mỗi lần được cô Tường Loan, cô
Giáng Châu, thầy Châu Trọng Ngô… khen là Na lại nhớ đến lời căn dặn của ôn ngày
còn sống.
Nhưng có ai học được chữ ngờ! Ngày Na mười bảy
tuổi, ngày Na má đỏ môi hồng, ngày Na học lớp 12 tràn đầy sức sống… là ngày
thiên đường đổ sụp. Chỉ hai tháng trời mà đất nước đổi chủ thay ngôi…
Cả thành phố tràn ngập một màu đỏ gắt, những câu
khẩu hiệu sắt máu được viết đầy trên bờ tường, những tay cán bộ nhà quê hò hét…
Ngôi trường Đồng Khánh cổ kính yêu dấu của Na cũng
đi xuống một cách tàn tạ. Không còn vẻ quý phái của cô Hiệu trưởng Bích Đào mỗi
sáng thứ hai trên cột cờ, không còn dáng dấp mô phạm của thầy Phạm Kiêm Âu dọc
hành lang với những tràng tiếng Pháp bay như gió khi vào lớp…Thay vào đó là
những khuôn mặt lưỡi cày, ăn mặc nhếch nhác, mở mồm ra là “chủ nghĩa tư bản
giãy chết, phồn vinh giả tạo…”
Thầy cô và học trò ngưng học hành, xách cuốc đi lao
động, tăng gia sản xuất. Ngày đi trồng sắn trên núi Thiên Thai, cô Diệu Vân còn
cắm lộn đầu và đuôi hom sắn bị một bà răng vẫu mắng là “tàn dư Mỹ Ngụy”…Buổi
chiều chủ nhật trồng bạch đàn trước trường Đại học sư phạm, nhìn từng đoàn xe
phủ bạt chở “chiến lợi phẩm” Honda, xe đạp chất chồng như núi ra phía Bắc, thầy
Lê Quân Thụy nói bâng quơ “Ngoài ta thiếu gì!”… Ngày bắt buộc đi theo Đoàn
Thanh Niên bài trừ “nền văn hóa phản động ”, Na ứa nước mắt nhìn những tác phẩm
văn học lớn bị cháy bùng trong tiếng vỗ tay của bọn Cách Mạng theo đuôi…
Mạ mất việc, nấu một nồi cháo trắng cá kho khô ngồi
bán dưới gốc cây trước cổng Đại Nội. Khách hàng là những chú đạp xích lô, anh
kéo xe bốn bánh, cô thợ may… nhưng không khó để nhận ra vẻ trí thức một thời
trên gương mặt đăm chiêu của họ. Nhìn mạ với gánh hàng trên vai mỗi sáng, Na
muốn bỏ học nhưng mạ nói mạ làm tất cả miễn sao con vô được Đại học đi làm bác
sỹ chữa bệnh cho mạ khi trái gió trở trời… Cuối năm Na đậu trường Y với số điểm
Lý, Hóa, Sinh cao ngất ngưỡng.
Nhưng – lại một chữ “nhưng” ác nghiệt- lý lịch của
Na khi đi chứng trên Phường bị tay Chủ tịch xuất thân lái heo “Xát nhận: Con
của Ngụy có nhiều nợ máu bị Cách mạng trừng trị trong tết Mậu Thân, không đủ
tiêu chuẩn vào Đại học ”. Na về vùi mặt vào gối khóc hết ba ngày. Ba ngày mạ bỏ
gánh cháo ngồi bên cạnh Na, mạ sợ con gái thất vọng làm điều dại dột.
Ngày thứ tư Na ngồi dậy tỉnh táo nói : – “ Không
học được nữa, thôi thì mạ cho con theo o Thơ đi buôn. Con không muốn làm cái
gánh nặng của mạ”. Mạ thảng thốt: – “Hiền lành như con đi buôn răng được!”. Na
cả quyết: – “ Mạ cứ để con đi.”
Na theo o Thơ đi buôn chuyến từ Huế ra Đông Hà và
ngược lại. Hàng đi ra là bột ngọt, vải vóc; hàng đi vô là thuốc lá Samith buôn
lậu từ bên Lào về. Hàng họ phải thu giấu kỹ lưỡng, có khi phải buộc trong người
để qua mắt bọn thuế vụ. Thoát được thì lời, bị bắt thì khóc lóc van xin, mất
nhiều lần thì cụt vốn, thậm chí phải chịu những hành động sàm sỡ… Các trạm thuế
như cái chợ, mấy tay quản lý thị trường mặt hất lên trời hống hách. Người đi
buôn đa số là phụ nữ, một số có chồng đi “cải tạo” phải bươn chải để bới xách
và nuôi con. Phần nhiều các chị đều tận tình giúp đỡ, che chở cho nhau khi qua
trạm. Mỗi người đều có chung bi kịch của thời đại. Nhưng đi được ba chuyến thì
o Thơ nói mạ cấm không cho Na đi nữa, “nhìn cảnh chướng tai gai mắt nó hư người
đi”. Na nhờ bác Năm làm cái tủ thuốc lá ngồi cạnh mạ, kiếm mấy hào bạc Bắc qua
ngày.
O Hường bán nhà dưới An Cựu, mang chồng và ba đứa
con lên nhập hộ khẩu. O nói : – “ Nhà rộng, hai người ở phí. Con Na mai mốt
theo chồng thì có hai thằng cháu trai hương khói cho ôn. Cháu ngoại mà là cháu
trai thì cũng tốt hơn là cháu nội gái ”. O Thơ xí một cái dài : – “ Nói rứa mà
cũng nói. Tụi nớ mô phải họ Hà…”.Mạ cắn môi coi bộ suy tính hung lắm.
Nghĩa trang Ba Tầng nhà nước bắt di dời. Tấm bảng
đá khắc lịch sử nghĩa trang bị đập bỏ. Bọn họ phủ nhận tội ác đã gây ra trong
Tết Mậu Thân cho người dân Huế. Mạ hốt cốt ba đem thiêu và xin sư thầy trụ trì
cho thờ trong chùa Vạn Phước, nơi ngày xưa ba đã qui y. Mạ thầm thì với ba lâu
lắm, hai dòng nước mắt chảy dài trên má.
Một chiều tháng ba năm bảy tám, mạ xách chiếc túi
nhỏ dắt tay Na nói với o Hường đi về chợ Mai mua gạo ruộng lên nấu cháo cho rẻ.
Hai mạ con xuống bến đò ở sau chợ Đông Ba. Nhưng đò không dừng ở làng Chuồn, ở
Mậu Tài mà đi thẳng tuốt dưới Thuận An. Đêm hôm đó, hai mạ con ra khơi trên một
chiếc gọ, đánh cược tính mạng mình với số phận…
****
Mạ ơi! Rứa là mạ đã xa con vỉnh viễn. Cho đến trước
lúc nhắm mắt xuôi tay, trong đầu mạ con vẫn là đứa con gái bé nhỏ của gần ba
mươi năm trước. Ngày bỏ nhà, bỏ nước ra đi, trong túi nhỏ mạ xách trên tay chỉ
có cái thẻ bài của ba, tấm hình ba đội mũ nâu Biệt Động Quân, tấm ảnh ba mạ
ngày cưới và cái chứng chỉ học trình của con. Nhưng nó là động lực để hai mạ
con vươn lên trên đất khách quê người. Con không quên hai bàn tay nổi gân xanh
của mạ khi hàng ngày phải clean sàn nhà; cũng bàn tay ấy đêm khuya đã tỉ mẩn
làm từng thau bánh bột lọc, bánh nậm bỏ mối cho nhà hàng Việt Nam. Con nhớ mãi
ánh mắt mừng rỡ của mạ khi con được vào Đại học Berkeley danh giá; nhớ món cá
kho thơm phức của mạ khi con không hợp cái bánh Pizza béo ngậy… Con nhớ lắm mạ
ơi!
Nhờ ba lượng vàng của ôn nội, nhờ sự liều lĩnh của
mạ, mạ con ta đã thoát khỏi cái nhà tù lớn ấy và con đã thực hiện được nguyện
ước của ôn, của ba mạ, của riêng mình. Con đã có một gia đình hạnh phúc, một
nghề nghiệp vững vàng. Các cháu của mạ đã lớn lên trên một đất nước tự do,
không phải trải qua những vất vả về vật chất và khổ nhục về tinh thần như mạ
con ta thuở ấy. Tóc trên đầu con đã nhiều sợi bạc nhưng mỗi lần thức giấc nửa
đêm con vẫn thèm được dúi đầu vào ngưc mạ, nghe mạ kể chuyện về ba, người cha
thân yêu đã bị giết vào mùa Xuân Mậu Thân.
Làm sao quên được khi mỗi lần Tết đến Xuân về bàn
thờ nhà ta lại nghi ngút khói nhang và hình ảnh ba nằm trên nền cát ẩm, miệng
ứa máu là một nỗi ám ảnh trong con. Ngày ấy đã có lúc con thề sẽ không bao giờ
về Việt Nam, về xứ Huế thương đau, về căn nhà xưa dưới chân Thượng thành đã cho
con hạnh phúc và nhiều đau khổ.
Nhưng mạ ơi, con sẽ về theo lời trăn trối của mạ
lúc lâm chung. Con sẽ đem theo bình tro cốt của mạ. Con sẽ vào chùa Vạn Phước
cúng ba, xin sư thầy cho nhận bình tro mạ gởi ngày ấy. Con sẽ thuê một chiếc đò
chèo ra giữa dòng Hương giang trước chùa Linh Mụ. Và ở đó, con sẽ nhập hai bình
tro cốt làm một rải xuống con sông quê hương để ba mạ mãi mãi bên nhau trong
cõi vĩnh hằng…
Hương Thủy
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment