Mối Tình của Thầy Tăng Chùa Chí Hạ (Chí Hạ Tự Thượng Nhân chi Luyến)
Phần Hai
Thật là lạ lùng tình ái
lại nẩy mầm được trong một người không có tư cách để yêu như thầy tăng. Thực ra
nơi cung đình, hầu tìm kẻ tri âm, người ta hay đờn ca xướng họa những loại ca
trù có tên là ”tình yêu vô vọng”; loại ca trù nầy nếu so với chuyện tình của
thầy tăng, chúng chỉ là những bài biểu diễn về chuyện tình khơi khơi cạn kệch.
Ðọc tới đây, bạn đọc cũng
đoán ra được đôi phần: Người nữ quyền qúi ấy là hoá thân của tao nhã, và nàng
còn là người đàn bà rất thích được yêu vì. Làm quí phi cao trọng, quyền uy mà
chẳng được ai yêu, thì mọi sự khác chỉ đáng vứt đi. Trong khi các đấng nam nhi
kèn cựa nhau nơi chính trường, quí phi lại ước mơ chinh phục thế giới theo
phương pháp của nàng, phương pháp thuần nữ tính. Nàng cười thầm những người đàn
bà cạo đầu đi tu. Ðàn bà, người nào cũng vậy, tiếng là bỏ đời, nhưng họ chẳng
bỏ gì ráo. Chỉ có bọn đàn ông con trai mới từ bỏ được những cái mình có. Lão
tăng ấy ngày nọ đã dứt bỏ cuộc thế nổi trôi; thầy hơn xa những bậc công hầu
khanh tướng. Thầy đã bỏ được cõi đời nổi trôi này, và giờ đây thầy lại rắp bỏ
luôn cả cõi đời sau. Người nữ quí phái ấy vẫn còn nhớ trong lòng những ý nghĩ
về hoa sen. Nàng thích đóa sen rất lớn ấy, lớn tới 250 do-tuần hơn là loài sen
nở trước mắt. Rồi ví dụ như khi nghe gió luồn qua cây trong vườn nhà, và so
sánh tiếng vàng rơi rụng từ ngàn cây trong Cõi sạch lúc gió thổi, nàng thấy âm
thanh vườn mình chẳng hay ho gì. Và những lúc nghĩ tới những nhạc cụ treo lửng
lơ giữa trời, chẳng đánh mà kêu, nàng thấy đờn với địch đời này chỉ là những mô
phỏng tội nghiệp.
Thầy tăng chùa Chí Hạ đã
chiến đấu không ngừng. Thầy đã đấu tranh với xác thịt của tuổi thanh xuân hầu
kiếm cho mình cái đời sau, nhưng, khi đã về già, thầy thấy cuộc chiến đầy tuyệt
vọng ấy là một sự thất bại không cách gì cứu vãn được.
Cái chuyện yêu nàng quí
phi quê Kinh Cực rõ ràng như ban ngày là chuyện chẳng làm được gì. Một khi
vướng vào cái tình như thế, chắc chắn không có cách gì vào Cõi sạch được nữa.
Thầy tăng đức độ lâu nay sống ung dung mình thiệt là mình, ngay tại cõi đời
này, bỗng chốc bị bóng tối che phủ trên đường về. Cái dũng khí trong cuộc chiến
đấu lăn lộn thời trai trẻ, vểnh mặt tự cấm mình, không được vướng vào những ham
muốn mà nếu chàng thích, chúng vẫn còn đó đợi chàng, cái dũng khí ấy giờ này
vẫn còn sống động nơi lão tăng.
Nhưng thầy vẫn lại sợ hãi;
đấy là sự tỉnh táo coi chừng cái bóng tối sâu thẳm đời này, ở đấy người ta
chẳng làm sao mà biết điều gì sẽ xảy ra ở một bước trước mặt mình. Mãi cho tới
cái ngày chiếc xe ấy dừng bên bờ hồ Chí Hạ, thầy luôn tin rằng cái đang chờ đợi
thầy không gì khác hơn là cõi Niết-bàn.
Lối suy nghĩ về đài hoa
(5), lối suy nghĩ toàn thể (6), lối suy nghĩ từng phần (7), tất cả chỉ là
chuyện phù phiếm. Mỗi khi thầy tập trung tư tưởng, dung nhan nàng quí phi lại
hiện lên. Thầy nghĩ về nước nơi hồ, nhưng rồi cũng chỉ uổng công, bởi từ đáy
nước lăn tăn, dung nhan quí phi lồ lộ hiện lên. Tập trung như thế quả là lợi
bất cập hại, nên dù thầy có cố gắng cách mấy đi nữa, lòng thầy vẫn cứ phân tán,
đầu thầy vẫn mãi mông lung. Quả thực chuyện tập trung tư tưởng chỉ tổ làm thầy
rối rắm u mê. Thầy ngạc nhiên về điều này. Thầy nhận ra rằng có cố gắng tập
trung cách mấy, cuối cùng mê muội lại hoàn mê muội. Lòng thầy ủ ê; thầy bèn
nghĩ ra cách là cứ tập trung tư tưởng vào dung nhan của quí phi, thay vì
cứ chạy trốn rồi lại trốn chạy; làm như thế hẳn thầy sẽ được vui vẻ hơn.
Thầy cảm thấy sung sướng
khi thầy điểm trang, nét này vẻ nọ, cho cái ảo ảnh của nàng quí phi. Làm như
thế, thầy tạo được một hiện hữu càng ngày càng rực rỡ, nhưng càng ngày càng xa
vời, càng ngày càng vuột ra khỏi tầm tay với. Không hiểu tại sao thầy vẫn cảm
thấy sung sướng cho được, bởi chẳng thà mường tượng ra nàng quí phi có một xác
thân người nữ là sà rất gần cõi thế, như thế còn tự nhiên hơn. Và dù đó chỉ là
ảo ảnh mà thôi, nhưng làm như thế quả là đỡ khổ gấp bội cho người đang
yêu.
Nghĩ ngợi như thế, và thầy
vẽ ra được một hình ảnh của quí phi cho riêng mình, nhưng thầy thấy rằng nơi
cái hình ảnh ấy, thịt xương chẳng ra thịt xương, ảo ảnh chẳng ra ảo ảnh. Nói
đúng ra, thầy chỉ vẽ ra những nét tượng trưng cho những biểu hiện bên ngoài
(8), những nét tượng trưng cho thể xác (9). Cất công đi tìm những nét tượng
trưng như thế, thì thật là kỳ cục. Cao tăng đã bị hãm vào tình, vậy mà thầy vẫn
không thoát ra khỏi cái khuynh hướng tu luyện hằng này, ấy là truy đuổi thân
xác bằng cách trừu tượng hóa nó. Thế là nàng qúi phi ấy trở thành một ảo ảnh
hình sen lớn tới 250 do-tuần; khi nghiêng mình trên những cánh hoa sen, nàng to
hơn núi Tu-di, lớn hơn cả một nước.
Thực ra, thầy càng tuyệt
vọng tạo ra một cõi tình như thế, thầy phản bội Phật càng đậm, vì một khi đã
tạo ra tình mà đành bó tay, tình ấy đố gỡ cho ra. Yêu mà không được đáp trả,
thời đâm ra nghĩ ngợi lung tung (10), ý bậy bạ (11) càng động đậy tợn. Trái
lại, tình mà còn có cơ hi vọng, tình ấy mới dễ buông. Nhưng tình tuyệt vọng lại
tựa như hồ nước tù đọng bao phủ mặt đất; và cảnh sắc chẳng còn thấy tuôn chảy
tới lui trong hồ ấy nữa. Thầy những ước làm sao gặp lại được nàng quí phi cho
thỏa lòng, nhưng rồi thầy lại đâm sợ hãi vì nếu gặp lại quí phi, cái ảo ảnh về
hình tượng nàng lớn như đóa sen Cõi sạch sẽ bị vỡ tan mất dấu mất tăm. Nhưng
nếu ảo ảnh ấy tan vỡ được, thầy quả thực sẽ được cứu, thầy sẽ được giải thoát
khỏi tuồng ảo hóa đã bày ra đấy. Tuy nhiên một viễn tượng như thế vẫn làm thầy hãi
hùng. Cái tình yêu đơn côi ấy cuối cùng đã bày ra những trò lừa lọc lạ lùng đến
độ tình đánh lừa cả chính mình. Cho nên, khi thầy đi đến quyết định dứt khoát
sẽ gặp quí phi, thầy cảm thấy như mình hầu như sắp thôi bệnh, cái loại bệnh
thiêu đốt ruột gan. Quyết định ấy làm thầy vui khác thường; thầy cứ ngỡ đấy là
niềm vui của một người đã thực sự thoát ra khỏi tình.
Người qua kẻ lại không ai
lấy làm ngạc nhiên khi thấy một lão tăng chống gậy-có-đầu-hình-bồ-câu đứng cạnh
mép vườn của dinh thự nàng quí phi. Chẳng có gì lạ lùng cảnh mấy ông thầy chùa,
những kẻ ăn mày đứng trước nhà quyền quí.
Ðám gái hầu bèn vào báo
tin cho quí phi hay. Nàng vừa buồn cười vừa hé rèm nhìn ra hướng đó. Một lão
tăng ủ rũ đứng cúi đầu trong bóng lá xanh non. Nàng chỉ nhìn một thoáng. Và khi
nàng không còn có thể nghi ngờ gì nữa đấy là thầy tăng mà mình đã thấy dạo nọ
bên bờ hồ Chí Hạ, mặt nàng chẳng vì thế mà biến sắc. Nàng ngần ngừ. Rồi chẳng
biết mình phải dứt khoát làm gì, nàng ra lệnh cứ để mặc ông ấy đứng đó. Bọn gái
hầu cúi đầu, lui ra.
Nàng bắt đầu cảm thấy bất
an. Bây giờ lòng nàng mới như thế.
Nàng đã thấy nhiều người
già từ bỏ đời này, nhưng cái loại người dám từ bỏ đời sau, giờ này nàng mới
thấy. Cảnh tượng ấy thật chẳng lành, và khủng khiếp quá chừng. Nàng mất ngay cái
sung sướng khi hoang tưởng về mối tình của thầy tăng, nếu thầy tăng vì nàng mà
buông thả đời sau đi nữa. Và cái đời sau ấy nàng không còn chắc như bắp là sẽ
lọt vào tay nàng. Nàng nhìn xuống xiêm y lộng lẫy và đôi tay đẹp của mình, rồi
nhìn ra áo cà sa luộm thuộm và cái mặt già cỗi của ông thầy chùa xa xa ngoài
vườn. Một cái gì đó như nỗi mê hoặc dấy lên từ địa ngục, nhưng cái mê hoặc đó
khác với mộng lớn mà nàng đã từng mường tượng. Thầy trông như một người từ địa
ngục chui lên. Cái dáng dấp của một con người đức độ cao vời kéo theo sau mình
vạt hào quang Cõi sạch, con người ấy giờ này không còn nữa. Luồng ánh sáng từ
thầy tỏa ra đã tắt ngấm. Ðúng là thầy tăng chùa Chí Hạ, nhưng dẫu sao ông vẫn
giống như những người khác.
Là một người sống nơi cung
điện, nàng có khuynh hướng coi chừng những chuyện làm mủi lòng. Những chuyện
gây mủi lòng sờ sờ trước mắt, lại càng đặc biệt coi chừng. Thấy thầy tăng giàn
trải trước mình mối tình sâu đậm đến mức như thế, dầu đấy là mối tình không có
tình nào lớn hơn được nữa, mà mình hằng mơ ước, nàng vẫn thấy lòng mình bị sụp
đổ khi hiện ra trước mắt mình một tấm hình hài quá đỗi tầm thường như thế.
Khi thầy từ từ chống gậy
lên kinh, thầy quên hẳn nhọc mệt. Thầy rón rén vào dinh nàng quí phi quê Kinh
Cực, và khi biết là người đàn bà mình yêu đang ở sau rèm kia, thầy mới tỉnh ra
khỏi giấc mơ hoàn toàn giả tưởng.
Khi khối tình si
đang còn chưa ra hình ra dạng, cái đời sau lại bắt đầu mê hoặc thầy một lần
nữa. Nhưng thầy vẫn cảm thấy Cõi sạch mà thầy tưởng tượng không hẳn là một cõi
có thật. Nỗi khát khao về một Cõi sạch đã nắm bắt lấy những hình tượng của giác
quan. Ðể cho tỉnh ra khỏi cái ý tưởng sai lầm cho đời này là một chướng ngại
cho đời sau, thầy chỉ còn có nước gặp cho được quí phi và tỏ tình với
nàng. Chỉ có vậy mà thôi.
Thật là cay đắng khi thân
già phải tì lên gậy mà đứng đó. Những tia nắng rỡ ràng tháng Năm luồn qua đám
lá non đổ lên đầu thầy tăng. Thầy vẫn đứng đó; thầy vẫn mãi trông ngóng. Nếu
lát nữa quí phi nhận ra thầy và triệu vời thầy vào, thầy không còn phải chịu
đựng thủ tục chờ đợi như thế nầy nữa. Ðược như thế, tất Cõi sạch sẽ mở cửa và
chờ đợi thầy trong ấy. Thầy chờ. Thầy chống gậy, để trụ lại cái mệt mã; và đầu
óc thầy dường như cũng bắt đầu lùng bùng mông lung. Mây che dần nắng. Hoàng hôn
về. Ðã tối rồi mà chẳng nghe âm hao gì từ quí phi.
Phần quí phi, nàng chẳng
hề hay biết gì chuyện thầy tăng đang tưởng tượng về Cõi sạch xuyên qua thân
nàng. Nàng nhìn thầy qua rèm chẳng biết bao lần mà kể. Thầy đang đứng đó. Nắng
đổ nghiêng nghiêng. Thầy vẫn đứng đó.
Nàng sợ, bởi nàng cảm thấy
như đang đứng trước một sinh linh đang bám chặt vào hư ảo. Nàng còn sợ phải sa
địa ngục. Trù quyến một thầy tăng đức độ cao vời như thế nhất định không thể
vào được Cõi sạch. Nàng bị chấn động bởi cái người đời thường sợ: sợ địa ngục
sẽ chào đón mình. Cái tình yêu tuyệt đối mà bấy nay nàng mơ mộng, giờ đã vỡ
tan. Tình yêu, ấy là địa ngục. Khi nàng đối diện với thầy, nàng thấy, qua thầy,
cái cõi địa ngục ấy.
Nhưng người đàn bá quí
phái ấy lại giỏi chiến đấu chống lại sợ hãi. Chí khí vùng lên. Nàng sử dụng đến
cái tàn nhẫn tự nhiên còn mai phục trong nàng. Ông thầy chùa đến một lúc nào đó
có lẽ cũng sẽ sụm, và cho tới khi sụm muốn đứng đó thì cứ đứng, nàng nghĩ trong
lòng. Nàng nhìn qua kẽ rèm, và thấy bóng dáng thầy tăng vẫn còn đúng trơ ra đó.
Ðêm đến. Trăng chiếu tràn
lan. Bóng dáng thầy chùa vẫn đứng sững đó như một bộ xương trắng. Nàng chẳng
cách gì mà nhắm mắt được, vì sợ. Tuy nàng quay lưng không nhìn ra ngoài, nhưng
nàng vẫn cảm thấy được cái nhìn đau đáu của thầy tăng; như thế, tình yêu của
ông ta nào có phải là một tình yêu dung tục; nhưng nàng vẫn cứ sợ sa phải địa
ngục, và cứ phải nghĩ tới Cõi sạch. Nàng nghĩ là cái Cõi sạch duy nhất của
nàng, ấy là cái cõi mà ở đó nàng được che chở khỏi những thương tích đớn đau;
và Cõi sạch ấy không giống cái Cõi sạch của ông thầy chùa, và chẳng dính dáng
gì đến mối tình của ông ta. Nàng cho rằng, nếu bộc bạch cái ý nghĩ đó cho thầy
tăng, hẳn cái Cõi sạch mà nàng thầm nguyện sẽ sụp đổ ngay.
Cái tình yêu của thầy
tăng, nàng tự nhủ, thiệt chẳng liên quan gì đến nàng, vì ông ta chỉ yêu bản
thân mình, cho nên không lý gì nàng lại mất đi cái tư cách vào được Cõi sạch.
Ðêm khuya dần và
trời trở lạnh, thật lạnh. Nàng không còn tin chắc là lỡ thầy tăng chết gục,
nàng sẽ chẳng chút động tâm.
Thầy vẫn đứng. Mây
phủ mờ và bóng dáng thầy tăng giờ đây trông thật quái lạ. ”Mình với lão
thầy chùa kia có liên quan gì với nhau đâu, hả trời!” nàng thét lên như thế
trong lòng. ”Sao khi không lại có chuyện kỳ cục như vậy, thiệt không hiểu nổi!”
Thật là lạ, trong cái
khoảnh khắc nàng thét lên như thế, nàng quên đi cái sắc đẹp của mình, hay nói
đúng hơn, nàng đã làm cho mình quên.
Cuối cùng trời ngoài kia
sáng dần. Thầy tăng vẫn đứng đó. Quí phi thua cuộc; nàng gọi gái hầu, cho triệu
thầy tăng đến trước rèm, vào lúc thầy đang lên cơn sảng sốt, và xác đã tả tơi,
hao kiệt. Thầy không còn biết rõ là thầy đang chờ nàng quí phi, hay đang chờ
vào Cõi sạch. Dù thấy bọn gái hầu đi ra vườn tiến lại phía thầy, thầy vẫn không
cảm thấy cái mình đang chờ đợi đang đến. Bọn gái hầu chuyển lời của nàng quí
phi cho thầy. Thầy tăng kêu lúng búng trong miệng, tiếng kêu hãi sợ. Lời gì mà
chẳng thành âm.
Bọn gái hầu đưa tay thử
dẫn thầy vào, nhưng thầy rụt tay mình lại. Thế rồi, với bước đi vững chãi khác
thường, thầy sải bước đi đến trước rèm quí phi.
Phía trong rèm, tối đen;
từ phía ngoài, không thể nhìn thấy được quí phi. Thầy tăng quì xuống trước rèm,
lấy hai tay che mặt mình, và thầy khóc.
Thầy khóc nức nở, thầy
khóc lâu, mà chẳng thốt được lời nào. Và thầy cứ khóc mãi như thế cho thỏa
nguồn cơn.
Thế rồi từ trong bóng tối
nhập nhòa rạng đông, một bàn tay trắng như tuyết từ trong rèm ren rén đưa ra.
Thầy tăng chụp lấy bàn tay ấy, bằng cả hai tay mình. Rồi áp vàp má, rồi áp lên
trán.
Quí phi cảm thấy bàn tay
lạ, lạnh lẽo đụng vào tay mình, và bàn tay lạ ấy ướt đẫm, và nóng. Và nàng cũng
cảm được cái khí vị nhơ nhớp nơi cái bàn tay đẫm nước mắt của người kia. Rồi
khi những tia nắng ban mai bắt đầu lọt qua mành, nàng bỗng nhiên bị chấn động
mạnh bởi một linh cảm phi phàm, có cội nguồn từ lòng đạo. Nàng nghĩ bàn
tay mà nàng không thấy tỏ tường kia, nào có khác bàn tay đức Phật.
Trong lòng nàng ảo tưởng
lại sống dậy. Nào là ngọc lưu ly Cõi sạch, nào là xum vầy lâu đài thất bảo, rồi
bóng người nhà trời chơi nhạc, hồ bằng vàng rải sỏi ngọc thủy xương, hoa sen
ngời ngời, tiếng hót của loài chim Ca-lăng-tầm-già... , tất cả đều sống lại.
Một Cõi sạch như thế sẽ là của nàng, và bây giờ nàng vẫn tin như thế, và nàng
vẫn tin chuyện nàng chấp nhận tình yêu của thầy tăng là điều tốt đẹp.
Nàng chờ người đàn ông có
bàn tay Phật ấy xin nàng vén rèm hẳn lên; thầy ấy mà xin như thế, có lẽ nàng sẽ
vén. Cái dáng dấp tuyệt thế giai nhân của quí phi quê Kinh Cực như độ nọ bên bờ
hồ Chí Hạ có lẽ sẽ lai hiện. Và thầy tăng, có lẽ nàng sẽ triệu mời thầy...
Quí phi vẫn đợi.
Nhưng, thầy tăng vẫn câm
lặng, và thầy cũng chẳng nguyện ước gì. Cái bàn tay già lão của thầy nắm chặt
bàn tay quí phi. Ðôi bàn tay của thầy giờ đã buông xuôi; bàn tay tuyết trắng
vẫn còn đọng lại trong nắng ban mai.
Thầy tăng ra đi. Lòng quí
phi trở nên giá buốt.
Chỉ nội trong vài ngày có
tin đồn tới kinh đô là khi thầy tăng về tới am cỏ, thầy mất.
Còn quí phi quê Kinh Cực,
nàng bắt đầu chép kinh, những quyển kinh đẹp. Ðó là kinh Vô lượng thọ, kinh
Pháp hoa, kinh Hoa nghiêm, những bản kinh thấm đượm lòng biết ơn.
Mishima Yukio (Tam-Ðảo Do-Kỷ-Phu)
(1) Tịnh độ tông, còn gọi
là Tịnh thổ tông, do đó tôi mạo muội thử dịch nôm là phái Cõi sạch. (2) Bình
an: Heian (794 - 1185) (3) Núi Tu-di: Núi trong kinh Phật. Hòn núi lớn nhất
trong trung tâm hoàn cầu, núi của tiên thánh, tinh tú xây quanh, lớn tới 84
ngàn do-tuần. (4) thủy tưởng quán (5) hoa đài chi tưởng (6) tổng tương quán (7)
tạp lược quán (8) thực tướng (9) thực thể (10) vọng tưởng (11) tà niệm //
Bản dịch này thân tặng con trai út Nguyễn Hiển
Vi, 8 tuổi, đã tự ý bưng trà, bánh cho ba Thà nhiều lần, nhờ đó NVT đó có sức
dịch xong truyện ngắn khó dịch này.
Người
chuyển bài – Nhan TH
No comments:
Post a Comment