Về Nhà
Chiếc xe chạy khá nhanh, nó kiếm thêm một số khách ‘khá bộn’ trên đường
vào. Hành lang giữa chật cứng. Người ngồi ép vào nhau, cổ nghểnh cao tìm khoảng
trống để. Tôi ‘an phận’, thoải mái hơn chút đỉnh nhờ lên xe trước. ‘Lơ’ xe lấy
‘ngon ơ’ của tôi đúng một trăm đồng bỏ vào túi.
Chuyện tiền nong của anh ta với
tài xế không liên quan gì tôi. Thế tôi lại âm thầm ‘cám ơn’ cái ghế ‘súp’ hiếm
hoi do anh ta dành cho tôi lúc xe vừa rời bến.
Xe chạy nắp theo bờ biển. Hình như ngang bờ biển Ninh Chữ? Hoang sơ với làn nước xanh mấp mé theo quốc lộ. Bao hòn đá chập chùng, những vũng nước biển rong leo lẻo. Xa xa sóng đánh vào đá nước tung lên trắng xoá. Ngoài khơi hoang vu không thấy bóng thuyền.
Xe chạy nắp theo bờ biển. Hình như ngang bờ biển Ninh Chữ? Hoang sơ với làn nước xanh mấp mé theo quốc lộ. Bao hòn đá chập chùng, những vũng nước biển rong leo lẻo. Xa xa sóng đánh vào đá nước tung lên trắng xoá. Ngoài khơi hoang vu không thấy bóng thuyền.
Cuối năm 1974 lấy phép từ TKQT,
tôi đi phép từ Đà Nẵng vào Sài Gòn bằng xe đò. Tôi dám ‘bạo gan’ đi xe? an ninh
lúc đó tôi dám ‘bạo gan’ bận đồ lính đi trên xe do thiếu tiền thiếu phương tiện
thì đành phải ‘gan’ thôi. Ngang đây, cảnh biển Ninh Chữ quá đẹp nên tôi nhớ
mãi. Như vậy là gần Phan Thiết, “quê hương nước mắm” rồi. Từ Phan thiết vào đến
Bình Tuy không còn bao xa.
Qua khỏi cầu Phan Thiết, chiếc xe
đang vào Thành Phố. Trong xe tôi vẫn ngữi được mùi nước mắm từ mấy hãng gần múi
cầu. Những đống hũ nhỏ, sơn trắng la liệt dưới kia. Người ta vẫn còn làm nước
mắm đựng trong hũ (còn gọi là trĩn )đất như xưa. Chiếc xe dài đang chạy xuyên
qua Thành Phố. Phố Phan vắng vẻ, buồn hiu. Những cửa tiệm thưa thớt, vài chiếc
xe honda 67 màu đen còn sót lại chạy vù qua mặt chiếc xe hàng. Bạn cùng lớp với
tôi, Nguyễn Cường Nam, ra trường sau tôi, hồi đó nghe tin Nam ‘trấn nhậm’ cây
cầu nào ngoài Phan Rang? Giờ tôi không còn biết tin gì về Nam? Phan Rang xe đã
qua rồi, đây là Phan Thiết; có thể Phan Rang, thị trấn nhỏ quá, nên tôi không
để ý.
Rừng Lá !
Xe ngang Rừng Lá. Người ta đặt tên
là Rừng Lá không biết do sao? Trước đây mỗi lần xe chạy ngang đây ai nấy cũng
lo, cũng hồi hộp. Nỗi ám ảnh bị ‘du kích’ ra chận đường, một ‘rừng lá của mật
khu’ của ‘người bên kia’. Vào đây “rừng lá’ tôi cũng thoát do gặp may không có
‘du kích’ nào ra đón. Chuyến đi phép 1974 tôi vừa kể đoạn trên, tôi “bận đồ
lính” tôi thoát được một mối nguy hiểm tại Bồng Sơn, quận Hoài Nhơn, Bình Định.
Có chiếc cầu bị du kích đánh sập, và ‘du kích’ cũng giả dạng người đưa đò
‘transport’ khách qua sông, có xe bên kia đón.
Khách qua sông cùng tôi ai cũng
bận đồ dân sự, họ ép tôi vào giữa nếu có “du kích” thì họ khỏi thấy. Do tôi
‘điếc không sợ súng’ chứ người dân họ biết hết, nơi nào có du kích họ đều ranh.
Tôi lúc này đúng 21 tuổi, trẻ măng, bận bộ đồ xanh ô liu, trên ve áo còn mang
hai ‘quai chão” đen sì, may liền vào cổ áo, không gở ra được. Một anh trung
niên, bận bộ vét trắng, mang kính cận ra dáng trí thức. Tôi nhớ anh nói giọng
Quảng Nam cứ đi ‘kè kè’ bên tôi để che giúp bộ đồ lính của tôi. Giờ mấy mươi
năm qua, thêu dệt chuyện này hay hư cấu làm chi nữa. Tôi chỉ có lời CÁM ƠN MUỘN
MÀNG đến tình dân trên chuyến xe đò 1974 mà tôi đi phép từ miền trung vào nam
thăm gia đình. Năm đó trong nhà ai cũng mừng cho tôi ‘thoát nạn’. Nhưng về lại
đơn vị TKQT tức trả phép, ba mẹ tôi phải ‘rán sức’ mua vé máy bay cho tôi ra
lại Huế, chiếc DC 4 bốn cánh quạt bay vù vù gần 3 tiếng mới tới Phú Bài. Đó là
chuyện 1974 chuyến phép cuối cùng của tôi và cả những ai phục vụ trong QLVNCH
cũng nên.
Và giờ đây là “rừng lá’ của năm
1980, của mừng vui, không lo sợ hồi hộp gì nữa. Một ‘thằng tù’ vừa được ‘RA
TRẠI’ và sắp về đến nhà. Dòng suy nghĩ của tôi đột ngột ngưng hẳn do anh chàng
lơ báo cho tôi biết sắp đến Ngã Ba 46, họ sẽ cho tôi xuống đó.
Tới rồi! về nhà rồi ! một cảm giác
hân hoan, hồi hộp khó tả trong lòng tôi.
Xe thả tôi xuống liền rồ máy chạy
ngay. Tôi đứng bên đường nhìn theo chiếc xe dài, màu vàng nhạt khuất hẳn dưới
con dốc xa xa.
Trời thật sự chiều. Con lộ chính
đất nước giờ này thật vắng. Tôi băng qua đường. Ngã ba này giờ chỉ vài cái quán
lèo tèo, vắng khách. Giờ này tôi không còn tìm ra một phuơng tiện nào để về La
Gi cả.
Trong chuyến phép tôi vừa kể đoạn
trên, tôi theo mẹ từ Mỹ Tho về La Gi. Những chuyến xe lam đông khách từ ngã ba
Bốn Sáu này đây. Hồi đó nhộn nhịp làm sao. Về La Gi một chặng đường 18 cây số.
Hai bên đường đa số là người dân Quảng Trị theo chuơng trình Di Dân LẬp Ấp
1973.
Giờ tất cả đều vắng, ngã ba này
không có ai ngoại trừ tấm bảng xi măng rất lớn đề dòng chữ:
RỪNG LÀ VÀNG…ĐỐT RỪNG NHƯ THỂ ĐỐT
DA THỊT MÌNH
Tấm bảng kia dỉ nhiên là mới lạ
đối với tôi kèm theo sự vắng vẻ một ‘NGÃ BA 46’, một thời xe lam, xe ôm rộn
ràng lên về La Gi, trong đó có khá đông lưu dân QT.
Chuyện đi bộ theo con đường này về
nhà là chuyện bình thường đối với tôi lúc đó. Những ngày trong Trại Ái Tử,
những đoạn đường vác gỗ nặng từ rừng về trại cũng non hai muơi cây số; huống gì
bây giờ, tôi bước thênh thang. vai ‘nhẹ hều’ cộng thêm niềm vui quá lớn.
Mặt trời chưa lặn hẳn. Tôi còn
thấy được những xóm nhà hai bên con đường nhựa không rộng mà không quá hẹp. Vài
đám ruộng cỏn con, xen vài luống mía. Những túp lều tranh còn vuơng khói, xen
kẻ vài mái nhà tôn xi măng xam xám. Bên trái tôi một bóng núi nhòn nhọn. Rừng
chiều dần dần đen sậm lại. Cảnh vật im lìm trong bóng hoàng hôn. Tôi cúi đầu
bước nhanh trên con đường vắng ngắt không còn xe hay người đi. Hình như tôi
muốn đuổi theo ánh sáng còn sót lại của một buổi chiều sắp hết.
Ngang cầu Suối Đó thì trời đã tối
hẳn. Nhờ ánh trăng thượng tuần nên con đường không tối lắm. Con sông chảy qua
cầu vào mùa này đã cạn nên tôi dễ dàng lội qua. Cái cầu đã sụp đổ. Ban ngày, có
lẽ xe đò chạy vòng đường khác. Lội qua con sông cạn, leo lên lại con đường, tôi
dựa lưng lên cái ba lô tạm nghỉ mệt trên con đường nhựa.
Động Đền trong kia, nơi bà con tôi
ở rất đông. Ngày đó tôi thăm vùng này được hai ngày trước khi ra lại QT. Sau
1975 nhà ba mẹ tôi từ Mỹ Tho mới về tập trung tại đây. Động Đền, nơi người QT ở
gần bên nhau. Rẫy rừng than củi, buôn bán nông phẩm là chính. Những cái quán cà
phê tranh nho nhỏ, những cái chợ cũng nho nhỏ, những mái trường cho con em QT
và những chuyện gì nữa sinh ra từ vùng đất mới này, tôi không tường tận gì lắm.
Sau năm 1972, gia đình tôi ‘chạy’ thẳng đến Mỹ Tho, chỉ về tập trung ở đây sau
năm 1975; và đây cũng là lý do tôi khai địa chỉ trong giấy Ra Trại là vùng này.
Mặt trăng thượng tuần gần lặn, tôi
vội vả bật dậy tiếp tục bước nhanh.
Ngã Tư Quân Cảnh đây rồi!
Tôi rẽ phải vào con đường đất, nó
không còn trãi nhựa nữa. Chỉ vài cây nữa là đến Động Đền. Nhưng nhà tôi ở xóm
nào? tôi hoàn toàn mù tịt, trong địa chỉ là Xã Tân Mỹ thôi.
Con đường đất lồi lõm, khó đi
trong bóng đêm. Tôi cứ men theo vậy đi mãi. Ánh đêm và thôn xóm tối đen hai bên
đường. Trời về khuya, tôi càng lúc càng bước nhanh; hình như tôi đang mò lên
một con dốc [1]. Còn ánh đèn nào leo lét tôi đánh bạo bước vào hỏi nhà…
Một giọng nói Gio Linh của một chú
trung niên trả lời:
– Ôi o Nhỏ …thôn Cam Bình phải
khôn ? chú đi lui xuống ngay dưới dốc là đến ngay thôi …
Hú vía! tôi mừng quá “lia lịa” cám ơn chú kia. Người khách trong đêm như tôi, nghe mới ra tù chắc là một chuyện cho gia đình kia bàn tán ‘đỡ buồn ‘ -có lẽ họ mới đi làm rẫy về, chưa ngủ? Tôi quay bước trở lui, mò mẫm trụt xuống con dốc, con đường mòn đầy cát mà tôi vừa leo lên.
Hú vía! tôi mừng quá “lia lịa” cám ơn chú kia. Người khách trong đêm như tôi, nghe mới ra tù chắc là một chuyện cho gia đình kia bàn tán ‘đỡ buồn ‘ -có lẽ họ mới đi làm rẫy về, chưa ngủ? Tôi quay bước trở lui, mò mẫm trụt xuống con dốc, con đường mòn đầy cát mà tôi vừa leo lên.
May quá! vẫn còn ánh đèn nào leo
lét vừa thắp lên trong mái nhà tranh bên phải tôi. Tôi nhớ lúc qua đây, tôi
không thấy có ánh đèn này, có thể họ vừa làm gì đó, mới thắp lên lại? Mừng rỡ,
tôi gõ cửa…
Trong mái nhà tranh lụp xụp, ở căn giữa kể sẵn một cái bàn gỗ ọp ẹp, trên thắp một ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng lù mù. Thì ra đây là cái quán nhỏ: vài cái tô không, còn phảng phất đâu đây mùi thơm bún xáo do khách vừa ăn xong. Nếu thế, đây đúng là Chợ Cam Bình rồi. Ngoài kia chắc là cái đình chợ? bóng nó cao hơn những mái nhà đang im lìm ‘ngủ’ trong đêm. Thật lạ! không có tiếng con chó nào sủa khi nghe tiếng người. Bác chủ quán bằng tuổi mẹ tôi [2]người ôm ốm, cái áo cụt trắng bạc nhạt nhoà trong ánh đèn vàng vọt.Tôi vừa kịp nói xong, bác vội nói lớn lên giọng mừng rỡ với cái giọng Bắc ‘di cư’:
Trong mái nhà tranh lụp xụp, ở căn giữa kể sẵn một cái bàn gỗ ọp ẹp, trên thắp một ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng lù mù. Thì ra đây là cái quán nhỏ: vài cái tô không, còn phảng phất đâu đây mùi thơm bún xáo do khách vừa ăn xong. Nếu thế, đây đúng là Chợ Cam Bình rồi. Ngoài kia chắc là cái đình chợ? bóng nó cao hơn những mái nhà đang im lìm ‘ngủ’ trong đêm. Thật lạ! không có tiếng con chó nào sủa khi nghe tiếng người. Bác chủ quán bằng tuổi mẹ tôi [2]người ôm ốm, cái áo cụt trắng bạc nhạt nhoà trong ánh đèn vàng vọt.Tôi vừa kịp nói xong, bác vội nói lớn lên giọng mừng rỡ với cái giọng Bắc ‘di cư’:
-Ôi ! cậu là Phúc con o Nhỏ phải
không? theo tôi, theo tôi, o Nhỏ ở ngay sau này rồi.
Bà vội cầm cây đèn dầu dẫn tôi đi
ngay.
Con đường vào trong xóm tối om,
nhưng chỉ một đoạn thôi. Một mái tranh lụp xụp, lờ mờ dưới nền trời khi ánh
trăng thượng tuần vừa khuất.
Cầm cây đèn dầu trong tay, bác kêu
lớn:
-O Nhỏ ơi, o Nhỏ! thằng Phúc về rồi o Nhỏ ơi!
-O Nhỏ ơi, o Nhỏ! thằng Phúc về rồi o Nhỏ ơi!
Đinh Hoa Lư
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment