NGƯỜI NAM
KỲ...
Người Nam Kỳ không
lập gia phả
Đó là một câu khẳng
định chắc như đinh đinh đóng cột nhà.
Gia phả là gì?家譜 gia phả hoặc gia
phổ là phả hệ của một dòng họ,gia đình,là cuốn sách chép tên ông bà tổ tiên,con
cháu của một dòng tộc nào đó.
Người Bắc Kỳ xưa rày
ta nghe tới là thói "lũy tre làng", có gia phả, có dòng tộc nghiêm
ngặc, có trưởng tộc, có nhà thờ tổ, mả tổ, thủy tổ và những quy định ná thở với
con cháu. Nhưng với dân Nam thì không có, hoặc có hời hợt, hình thức.
Dân Nam Kỳ có câu
cười Bắc Kỳ là "Tổ tiên đại bác thụt chưa tới".
Chúng ta biết tổ
tiên khai phá dựng lên Nam Kỳ Lục Tỉnh là dân khai hoang, kêu là lưu dân.
流民 lưu dân là dân phiêu lưu, dân đi xa, dân bỏ làng
quê gốc mà ra đi.
Đó là người Ngũ
Quảng: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Huế), Quảng Nam, Quảng Ngãi hiệp cùng
người Minh Hương, đồng hóa người Khmer, người bổn địa Stieng... mà trộn ra dân
Nam Kỳ ngày nay.
Đó là dân nghèo rách
nát, dân bị lưu đày, bị truy nã, bị làng ruồng bỏ, gái chửa hoang, học trò thất
chí, quan bị biếm chức, người thích phiêu lưu, giang hồ lãng tử...
"Tới Cà Mau -
Rạch Giá
Cất chòi đốt lửa
giữa rừng thiêngMuỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mù như sương
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương?"(Sơn Nam)
Xa hơn dân Ngũ Quảng
là những người ở mạn Bắc di cư theo chúa Nguyễn Hoàng vô Trung Kỳ mà Phạm Duy
tả là "Gió tiễn người về đến quê hương câu ca giọng Hời."
Chẳng ngăn được sóng vỡ bờ
Với đêm mờ hồn về trên Tháp ma"
Rồi thời chúa
Nguyễn, lưu dân Việt từ Ngũ Quảng theo bà Ngọc Vạn vô Mô Xoài, Đồng Nai:
"Nhà Bè nước
chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng
Nai thì về"
嘉定 Gia Định là nơi đô hội, trù phú nhứt Nam Kỳ, có
nghĩa là định cư nơi an ổn, phước lớn.
Là những lưu dân tạo
ra hợp chúng quốc Nam Kỳ, ông bà chúng ta tạo ra một nền văn hóa đặc trưng
riêng của Nam Kỳ mà nhìn lại có phần khác ngoài Trung, đối lập với ngoài Bắc.
Thí dụ Bắc ăn bánh
chưng cắt 8 miếng hình trụ nhọn, Nam Kỳ ăn bánh tét -tét ra khoanh tròn, Bắc Kỳ
uống trà kêu uống chè, Nam Kỳ kêu trà.
Văn hóa Bắc là lũy
tre làng bốn góc chôn chặc cái làng ở giữa, làng nào sống kiểu làng đó, cấm
giao lưu trai gái, có hương ước ngặc nghèo, có thầy Lý hắc cám, có con Thị Màu
lẳng lơ, có chị Dậu bế tắc, có những người con gái chửa hoang bị cạo đầu bôi
vôi thả bè chuối trôi sông.
Nam Kỳ khác Bắc phần
nhiều.
Nam sống mở, làng
của Nam dựa vô mé sông, giao lưu với làng khác bằng ghe xuồng, bằng những con
lộ, người Nam luôn mời khách xa xôi vô ở chung, giúp đỡ nhau cùng an cư vui vẻ,
gái làng thích lấy trai xa xứ và thương chồng đứt ruột đứt gan vì cái quá khứ
"trôi sông lạc chợ" đó.
"Rồng chầu
ngoài Huế ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong chảy
lộn sông ngoàiThương người quân tử lạc loài tới đây,
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh cây sẽ về"
Gái Nam Kỳ chịu
chơi, dám theo người mình yêu, dám nhận hậu quả do tình yêu đó đem lại.
"Đi đâu cho
thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu
lạnh lùng thiếp camVí dầu tình có dở dang
Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp dzìa"
Ông bà tổ tiên Nam
Kỳ mình quá hãi hùng ở đất Bắc hắc ám nên vô Nam bỏ tục gần hết.
Họ không muốn con
cháu họ phải sống cái cảnh mõ làng rùng rợn phiên xử "hương ước" ở
đình làng như ngoài Bắc.
Làng xóm Nam Kỳ
không có hương ước, lệ làng, làng Nam Kỳ là làng mở, nhưng có những luật bất
thành văn, mọi người phải tôn trọng, làng Nam Kỳ tuân luật triều đình, tôn
trọng quan chủ quận, tri huyện.
Thành ra gái Nam
thất tiết thì bị gia đình xử bằng cách đuổi ra khỏi nhà, nhưng đuổi là thủ tục
thôi vì lén nhét tiền của cho nó đi trốn khuất mắt một thời gian hoặc đày nó
xuống nhà sau cấm ló mặt lên nhà trước trong một hai năm, hoặc ra vườn sau cất
nhà mà ở. Hết thời gian đó cô gái sống lại bình thường, con cháu máu mủ mình
mà.
Nên ai làm phim làm
cạo đầu bôi vôi, thả bè chuối trôi sông, thả rọ heo xuống sống, quăng người
xuống giếng là không hiểu gì về văn hóa Nam Kỳ. Tổ tiên Nam Kỳ chúng tôi chưa
bao giờ có ý nghĩ đó trong đầu với con cháu mình.
Người Nam Kỳ không
lập gia phả, vì sao?
Đừng bao giờ nói
người Nam Kỳ là lưu dân dốt không biết chữ mà không lập gia phả.
Các bạn nghiên cứu
thấy rằng Nho giáo Bắc Kỳ là đầu môi chót lưỡi, tức thể hiện bằng cái miệng,
Nho giáo Nam Kỳ thể hiện bằng cách sống.
Có ai đó nói “Người
Bắc cao đạo một cách ngây ngô còn người Nam thì thực tế một cách trần trụi".
Cái chữ trần trụi
hơi quá, nhưng những quy tắc bất thành văn ở Nam Kỳ nó vô hình dữ lắm nha, thí
dụ dân Nam Kỳ mời bạn ăn cơm, mà bạn ăn hỗn trong mâm cơm quá, họ không nói,
nhưng lần sau sẽ không mời. Người Nam Kỳ luôn để khách tự giác và không nhắc
nhỡ.
Trong làng Nam Kỳ
vẫn có người biết chữ Nho,sau là chữ Quốc Ngữ, nên biết chữ Quốc Ngữ được dạy ở
Nam Kỳ đầu tiên.
Nhìn đền chùa, miếu
mạo Nam Kỳ xưa đi,hoành phi câu đối rất nhiều, đó là bằng chứng.
Không viết gia phả
vì thấy không cần thiết. Một xã hội mở thì không cần gia phả.
Xưa đất rộng người
thưa, con cháu đi tứ tán, ở nhà toàn nhờ láng giếng gần đó,có câu "Bán họ
hàng xa mua láng giềng gần".
Là dân gốc lưu dân,
dân Nam muốn xóa bỏ quá khứ hãi hùng từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Cách xưng hô “anh
Cả” ở Bắc so với “anh Hai” ở Nam là điển hình.
Rất nhiều người đặt
câu hỏi tại sao người Nam gọi “anh Cả”, “chị Cả” (người con trưởng, theo cách
gọi miền Bắc) là “anh Hai”, “chị Hai”?
Nhiều người giải
thích rằng thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng dân ở Bắc vào khai phá vùng đất Phương
Nam, rằng trong đoàn quân Nam tiến lúc đó, hầu như không có ai là “anh Cả”, vì
đi mở cõi thì nguy hiểm, theo tục Bắc phải để người con trưởng ở lại để phụng
dưỡng cha mẹ và chăm sóc mộ phần tổ tiên; những người ra đi đều là con thứ.
Nói vậy không trúng.
Có những gia đình họ
ôm cả nhà cả dòng họ của họ vô Nam kìa.
Chuyện anh hai ở Nam
Kỳ là chuyện đặc trưng,không thể giải thích là ông cả cọp gì đó mà sợ nên Nam
Kỳ tránh "Anh Cả", vậy chứ ông Hương Cả thì sao? Nam Kỳ có Hương Cả
trong ban hội tề.
Đơn giản người Nam
cố tình làm cho khác Bắc Kỳ khi bỏ cả, chỉ gọi người lớn là anh hai, chị hai.
Bỏ chữ cả là một
dạng dứt áo, cắt đứt với hương ước, lũy tre làng, với họ tộc kinhhoàng kiểu
Bắc Kỳ.
Ông Hương Cả trong
Nam đâu có quyền hành gì, chỉ tượng trưng và là cả duy nhứt trong Nam, có lẽ là
một chút hoài vọng.
Người Bắc thừa tự là
con trưởng, nhưng thừa tự, cúng kiếng trong Nam là con trai út, Nam Kỳ rất thực
tế, thằng út lúc nào cũng trẻ trung, nó sẽ gánh vác gia đình ở mức hăng hái,
thằng hai thì già chát, nhỏ hơn cha mẹ không nhiều gánh gì nổi.
Câu "Giàu út ăn
nghèo út chịu"cũng của Nam Kỳ đưa ra.
Thằng út giữ hương
hỏa trong nhà,nhưng vẫn không hạ bệ thằng anh hai nha.
Bằng chứng là trong
những ngày giỗ chạp, cúng kiếng tổ tiên, đám cưới thì ông anh hai vẫn đứng ra
tế lễ, thằng út đứng sau lưng anh hai.
Trong họ tộc thì
người thứ hai vẫn mang tiếng người đứng đầu, đám cưới thưa gửi là ông bác hai
hết thảy, ông này chết thì ông bác ba lên thế.
Nhưng anh hai làm lễ
thôi, anh hai không có quyền xen vô chuyện cúng kiếng của thằng út như cúng
lớn, cúng nhỏ, cúng ra làm sao. Nam Kỳ chia quyền hết là ở đây.
Ngày nay Nam Kỳ thực
tế luôn ở kiểu chia bàn thờ, anh hai giỗ cha, út giỗ mẹ, tới ngày tụ lại hai
nhà vui vẻ.
Không gia phả, không
họ tộc, không có khái niệm nhà thờ tổ, nhưng Nam Kỳ mặc định nhà thằng Út là
nhà thờ tổ, tức là nhà nào mà cha mẹ, ông bà chết và thờ là nhà tổ.
Ông nào giữ hương
hỏa có nghĩa vụ làm đám giỗ, không có quyền chỉ trỏ, ra lịnh này nọ nghĩa vụ với
con cháu như tộc trưởng ngoài Bắc.
Con cháu trong Nam
sướng là vậy, cứ về ăn đám giỗ, giàu mua đồ nhiều, nghèo mua đồ ít, không ai
dám nói.
Với bản chất trọng
người sống, kính người chết ở mức tượng trưng, việc cúng kiếng Nam Kỳ cũng khác
Bắc Kỳ.
Thường giữa nhà
người Nam đặt cái bàn thờ 九玄七祖 "Cửu Huyền Thất Tổ" tức "7 đời tổ tiên trên chín tầng
trời@.
Nhưng thực ra người
miền Nam cúng giỗ chỉ 3 đời tới ông cố bà cố thôi, hết 3 hoặc 4 đời là không
cúng kiếng gì nữa.
Có câu: 五代埋神主 “Ngũ đại
mai thần chủ" (Đến 5 đời thì chôn thần chủ), tức đem bài vị chôn hoặc đốt,
nhập lại làm một gọi là "Cửu huyền thất tổ' và giỗ chung tượng trưng.
Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha"
Cái đình Nam Kỳ rất
chan hòa, vui vẻ, là nơi dân làng tụ hợp lại cúng thành hoàng rồi ăn uống vui
chơi, coi hát bội, nó như một cái ân khấu.
Gánh hát về đình là
niềm vui bất tận của người Nam Kỳ.
Nam Kỳ không có
thằng mỏ tay chưn của lý trưởng, không có cảnh phạt vạ kiểu Thị Màu
Trong cái làng Nam
Kỳ có nhà việc là chổ làm việc của làng, tra án ở đó, không mang vô đình như
Bắc Kỳ.
Coi 'Con nhà nghèo',
bà Cai Hiếu đòi đóng gông Ba Cam thì Hương Quản đáp lại "Tôi đang tra án
nó, mà thủa nay làng tôi có gông đâu mà đóng".
Là gốc lưu dân,
không viết gia phả, không lập họ tộc, không lập lũy tre làng, không có ông lý
trưởng hét ra lửa.
Để ý coi đi trong
đám giỗ Nam Kỳ luôn cúng một mâm ngoài sân nhà, đó là mâm cúng lề, cúng những
người khai hoang bỏ mình hồi xưa, sau 1975 CS kêu "mâm chiến sĩ"
Tất cả các miếu, am,
và bàn thông thiên Nam Kỳ đều có cúng mấy hủ muối, gạo và nước, có nơi cúng bó
củi.
Đó là cúng tổ tiên
gốc lưu dân của mình hồi xưa.
Người Nam Kỳ cúng
lề, cúng đất, cúng cô hồn.
Cúng tổ tiên Nam Kỳ
chung là ngày 25 tháng Chạp, khi con cháu tụ về dẫy mả, tảo mộ, họ sẽ làm mâm
cơm cúng ở nhà, thường là nấu cháo gà cháo vịt.
Tục thờ ông bà ở Nam
Kỳ rất đơn giản, chỉ ba bốn đời, nhưng không được bỏ bàn thờ tổ tiên..
Đồ Chiểu chửi rằng
"Sống làm chi theo quân tả đạo-Quăng vùa hương đạp bàn độc thấy lại thêm
buồn"
Xưa nam Kỳ có cái
bàn thờ và giường thờ.
Người Pháp qua, đem
qua Nam Kỳ cái tủ chén đứng kiểu thời Louis XVI, không cao không thấp, trước
tiên là ở xứ Thủ Dầu Một, sau thợ Gò Công sáng tạo đóng cái tủ thờ dựa trên
nguyên lý ráp mộng đi khung của tủ kiểu Pháp, nhưng cải tiến theo phong tục
Nam.
Từ đó cái tủ thờ này
là đặc trưng Nam Kỳ Lục Tỉnh, hiệp cùng tranh kiếng nữa, ra cái hồn tổ tiên Nam
kỳ mình.
Trong "Gia Định
thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức có đoạn:
"Vùng Gia
Định.... đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa
hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ. nhà nào tục nấy…. Gia
Định có vị trí nam phương dương minh, nên người khí tiết trung dũng, trong
nghĩa khinh tài…."
Đó là tánh hiếu
khách, hào phóng, không câu nệ hình thức, sống thực dụng.
Dân Nam Kỳ hay đờn
ca xướng hát, làm ra đờn ca tài tử và cải lương vang danh, hệ thống bài lý
nhiều nhứt Việt Nam.
Người Nam Kỳ trọng
tôn giáo, nhưng kiểu của họ.
Đạo Phật vô Nam biến
thể, phải trộn với tín ngưỡng dân gian. Dân Nam Kỳ không phải là những tín đồ
Phật giáo thuần thành.
Các phái Phật trong
Nam đều là biến thể, chùa trong Nam không lớn.
Công giáo trong Nam
Kỳ xưa khác ngoài Bắc,Nam không có các giáo xứ, người Công giáo Nam Kỳ hòa
nhập, thế tục.
Sông rạch và đồng
bằng tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ
đoạn trong chánh trị, nhưng tràn trề tình thương, biết nhìn người khác, biết
cúi mình xuống với Quốc Gia
Dân Nam Kỳ không
những nói ngay mà hay nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt, đôi lúc bổ bả.
Biết cái hay cái tệ
của mình để nhìn lại bản thân mình.Và tính cho ra cách thức tồn tại của xứ sở mình trước thời cuộc...
304Đen – llttm- - BCT
No comments:
Post a Comment