Đoản Văn Không
Đề Số Hai
Viết cho đám
bạn cũ, khi đọc chuyện có thể thấy có mình là người trong đó không chừng.
Chuyện Một
Đêm
tháng Ba, người nối tiếp người, xe nối tiếp xe, lầm lũi, lẳng lặng đi, dài
không khác gì một con rắn khổng lồ, giữa trời đêm hun hút của núi rừng cao
nguyên buốt lạnh. Quá giữa khuya, liên tỉnh lộ 7, anh bớt ga, chậm chiếc xe
Jeep, chất đầy đồ đạc, cũ không ra cũ, mới không ra mới lại, vừa qua đèo Chu
Sê.
Bên
lề đường, ở một khúc người thưa, đứt đoạn, dưới bóng trăng đêm lờ mờ, vằng vặt,
thằng con trai nhỏ, chừng sáu bảy tuổi, tóc hớt cua, quần sà lõn đen, áo thun
rách mất một bên tay, quảy trên vai khúc cây khô, treo đầu trước đôi dép xanh
dương đậm cũ, đầu sau cái túi ni lông đựng gì đó nằng nặng, lầm lũi một mình
ngó xuống đường, đôi chân khẳng khiu gầy, bước từng bước chậm theo dòng người
đi trước.
Nó
cứ lầm lũi đi, không ngó lại, thấy thương, anh lái xe chậm theo sau một khoảng,
sát lề đường, cho đoàn xe sau lên, người và người gồng gánh, níu kéo nhau qua
ngang, cũng như nó, không ai màng nhìn ra đường. Cứ như vậy một lúc, lái xe
nhanh lên khúc trên chừng trăm thước, chắc chắn là nó chỉ đi một mình, nhưng
tại sao chỉ có một mình, anh ngừng xe tấp vào cùng bên lề, sát vào mé mương bìa
rừng, ngồi chờ.
Trăng vẫn màu trăng như từ đầu hôm, anh dắt thằng nhỏ tới ngồi bên anh
ngay đầu chiếc xe Jeep, nó khư khư ôm khúc cây khô, đôi dép và cái túi ni lông,
nhìn kỹ, trong đó có hai ba nửa cũ khoai mì, khoai lang nguội, khô khốc. Anh
hỏi tên, nó lắc đầu, rồi òa lên khóc sướt mướt, anh không cầm được nước mắt.
Cha
mẹ nó chết vì bị loạt đạn pháo quân Bắc Việt bắn theo tại ngã ba Mỹ Thạnh, chổ
ngả rẽ vào liên tỉnh lộ 7, đoàn người di tản từ Pleiku xuống, hoảng loạn, túa
chạy, mạnh ai nấy lo thân, thằng nhỏ cũng chạy theo lạc giữa rừng người, người
tiếp tục tụ tập lại đi, nó cũng đi, đi hoài, không biết đường trở lại. Cha mẹ
nó nằm lại đó.
Chở
thằng nhỏ theo, hết ngày rồi đêm, theo đoàn người, cuối cùng, xe không còn
xăng, máy không còn nổ, bỏ xe, anh vừa dắt vừa cõng thằng nhỏ, đã ho từng cơn
từ lâu, một lớn một nhỏ cứ vậy mà tiếp tục đi.
Qua
Phú Túc, tan hoang, gần tới cầu Cà Lúi, trong bóng đêm, lại cũng một đêm trăng
vằng vặt, trong số hàng trăm xác người chết nằm dọc hai bên đường, một đoạn
dài, không biết vì đạn pháo hay đạn súng của quân Bắc Việt, có lẽ nằm đó cũng
đã mấy ngày, xác một người lớn ôm thằng con trai nhỏ, chừng sáu bảy tuổi trên
ngực, tóc hớt cua, tay còn ôm đôi dép màu xanh dương đậm cũ, nằm chết, có mùi
hôi, một nửa trên lề đường một nửa dưới bờ ruộng khô cằn màu bùn xám đỏ.
Chuyện Hai
Ngày
bải trường, nghỉ hè, cũng như năm trước, năm đệ Thất, mẹ lên tỉnh từ sáng sớm,
khiêm nhượng đứng nép mình ở gốc cây phượng già bên kia đường, xế chỗ cổng
trường một khoảng xa, chỗ cũ. Chuông tan trường reo lên vang rân, trong đám
đông nghẹt học trò túa ra như bầy ong vỡ tổ, nó chạy nhanh ra tìm mẹ, nắm tay bà
cười thành tiếng.
Tiếng
học trò nhà ở tỉnh, cười giỡn xúm xích với gia đình, nào xe hơi, xe gắn máy, áo
quần người nào người nấy thẳng thốn lụa là, cách đó không xa. Bất chợt nhìn mẹ,
cũng cái áo bà ba sờn tím bạc, cái quần đen ngã màu bùn che chưa trọn gót, cũng
đôi dép Nhật cũ, bộ đồ đã mặc khi lên tỉnh đón nó về năm trước, tự dưng thấy có
chút gì nhói đau nhè nhẹ, đâu đó trong lòng khó tả, khác hẳn năm trước, nó vô
tư không nghĩ gì. Xe đò tới, lên xe rồi, nhìn lại phía sau, nó thấy buồn buồn.
Năm
đệ Tứ, vào ở ký túc xá không lâu, được thằng bạn thân, nhà giàu cùng lớp giới
thiệu tới làm việc phụ bưng chén bưng tô cho khách, vài tiếng đồng hồ mỗi chiều
tan học về tại một tiệm cơm của người dì bà con hắn ta. Làm như vậy, vài tháng
sau, trước ngày nghỉ Tết năm đó, buổi chiều tan học, nó ra tiệm vải trong nhà
lồng chợ tỉnh mua hai sấp vải màu, áo tím đậm màu trái cà, quần đen tuyền màu
mực, đem về làm quà cho mẹ.Trên đường đi bộ từ chợ về ký túc xá, cười vui như
trúng số, ước mơ một ngày có được của nó đã thành sự thật.
Mấy
mùa Tết năm sau, không dám nhưng có đôi ba lần, lần lựa rồi e dè hỏi sao chưa
may quần áo mới, mẹ cười bảo chưa cần, khi nào may nó sẽ biết ngay.
Hai
mẹ con ngồi ăn bánh mì, với mấy lát thịt đồ hộp của Mỹ mà nó mua từ chợ Cũ Sài
Gòn, hôm đi xem kết quả Tú Tài Một về sau chái hiên nhà, buổi chiều còn nắng,
tin thi đậu rồi làm mẹ mừng khôn xiết, giờ thì bà bảo nó, bà chờ ngày này từ
mấy năm rồi, ngày mai mẹ sẽ may quần áo mới, vừa nói vừa cười, chút vạt nắng
tím hồng chiều còn sót lại, lùa ngang phớt qua, trên đầu bà những sợi tóc thưa
bạc màu sương khe khẻ đưa, vui lây.
Hôm
đưa nó ra đường, chờ đón xe lên tỉnh tựu trường đầu năm đệ Nhất, mẹ mặc chiếc
áo bà ba màu tím trái cà mới, lên xe, xe chạy một khoảng xa, nhìn lại, nó rươm
rướm khóc.
Chuyện Ba
Chị,
người con lớn của ba cô con gái trong nhà, nhà có cái tiệm bán hủ tiếu và cà
phê pha vợt vải duy nhất ở chợ xã, tuổi chừng hơn mười tám mười chín. Chị đẹp
nhất trong ba chị em, đều học trường tiểu học ở làng, lên tới lớp Nhất, thi rớt
đệ Thất trường trung học quận chị bỏ học, ở nhà phụ bán tiệm.
Chị
đẹp, ăn nói nhỏ nhẹ, dạ thưa, từ tốn, vui vẻ nên người ở chợ ở xã đều mến, ai
chọc ghẹo gì chị cũng cười trừ. Ông sư già, trụ trì cái chùa nhỏ nghèo cũ kỹ
cuối ấp chợ, sát bờ sông, cái chùa dân xã thường tới cúng quảy, có lần coi tuổi
coi tay cho mấy chị em nói chị có số “sát
chồng” nhưng ai nấy nghe rồi cười cười, không mấy gì tin.
Một
ngày đầu Hạ, chợ xã rộn rịp, pháo đỏ rượu hồng, mừng đám cưới chị và người
Trung Úy, đại đội phó Địa Phương Quân đóng trên đồn lớn, đầu xã.
Cuối Thu, sau ngày cưới chừng nửa năm, không may, chồng chị tử trận, một
đêm mưa dầm lớn khi quân du kích Việt Cộng từ mật khu Hố Bò, Dương Minh Châu
kéo qua, tấn công đồn ác liệt. Người ta đưa xác chồng chị về chôn anh ở quê nhà
miền tây sông nước. Cả chợ cả xã, ai nấy
đều bùi ngùi thương xót cho tình cảnh chị, tiệm đóng cửa mấy ngày, ít khi thấy
chị ra ngoài từ đó.
Hơn
hai năm sau, chị vào làm cô đỡ hương thôn cho bệnh xá xã, sau khi học xong khóa
huấn luyện dưới quận, cũng vẫn phụ nhà bán buôn. Không lâu chị bước thêm bước
nữa, lập gia đình với một anh giáo viên lớp Ba trường tiểu học nhà, không phải
đi xa, không phải làm dâu. Chợ xã một lần nữa rình rang chung vui chúc mừng.
Chiến tranh ngày càng lớn dần, dân xã ấp biết thấp thõm lo thấp thõm sợ hơn
trước, một ngày hơn một năm sau, qua Tết, trên đường về thăm nhà dưới Suối Cụt
Củ Chi trở lên trường, cũng không may chuyến xe đò sớm cán trúng mìn của quân
du kích Việt Cộng gài lại ban đêm trong mấy cái mô đất chặn đường, nổ tung,
người đi vừa chết vừa bị thương hơn hai chục, có anh giáo viên, chồng chị trong
số những người chết đó. Một lần nữa, tuổi xuân chưa quá, chị chịu thêm cái tang
chồng.
Người ở chợ, bây giờ mới nhớ tới lời ông sư già ở chùa về hai chữ “sát chồng”, họ chưng hửng bảo nhau “chẳng lẽ”, lúc này không còn ông sư nữa,
ông đã bỏ đi từ lâu lắm rồi. Bẳng đi một dạo, vắng chị, tiệm vẫn mở cửa, cũng
sáng tới chiều nhưng không thấy chị ra vào nữa.
Bốn
năm sau, có người ni cô còn trẻ, khăn áo nâu sồng về mừng đám cưới cô con gái
kế của chú thiếm tiệm hủ tiếu, bà con chung quanh hôm đó, nhận ra, mà buồn,
người ni cô kia là chị.
Chuyện Bốn
Trong hẻm, ngồi trên gác trọ học bài, nghe tiếng con gái rao chè đậu
xanh bột lọc nhẹ nhàng nhỏ, mỗi đầu hôm hàng ngày, không lê thê kéo dài riết
rồi quen, hôm nào không nghe, tự nhiên thấy thiếu thiếu cái gì đó, nhưng chưa
có lần nào mua.
Chiều thứ bảy, đi bán hơi sớm hơn mọi khi, vừa gánh tới trước hiên nhà,
trời bất chợt đổ mưa như trút nước, cô đành phải quảy gánh đứng lại, trong hẻm
nhà nào cũng như nhà nào, mái hiên nhô ra không dài, nước cứ mặc tình làm tình
làm tội người đi, từ trên gác, anh cầm vội cái áo mưa khá tốt mua ngoài chợ
trời Hàm Nghi chạy xuống lầu, ông bà chủ không có nhà, mở rộng cửa, đưa cho cô
gái đậy sơ gánh chè lại, rồi kêu bước vào trong chút xíu đụt mưa.
Hỏi
nhau qua lại làm quen, chờ mưa tạnh, cô chừng mười bảy, học lớp đệ Nhị, nhà chỉ
có hai mẹ con, mẹ bán hàng ban ngày, ở cuối con hẻm, chỗ trổ ra ngỏ đường phía
bên kia khu hỏa hoạn Petrus Ký cũ. Anh, sinh viên nghèo năm cuối Kỹ sư Hóa học,
quê ở tận miệt làng quê miền Tây, nơi ruộng đầy ốc gạo bốn mùa. Mưa tạnh, cô
ngại ngùng quảy gánh đi, luôn miệng mấy lần cám ơn, anh đứng trước cửa nhìn
theo, chờ nghe tiếng rao chè quen đã nhớ.
Rồi
hai người quen nhau, thương nhau, cũng chờ cũng đón nhau, đưa về nhà chào hỏi
kính thưa, theo lễ nghĩa cha mẹ dạy, mẹ cô gái mừng không biết bao nhiêu mà
nói, con cái nhà ai biết phép biết tắc.
Tết Mậu Thân, năm Bắc quân mở cuộc tổng tấn
công đất Nam, về quê rồi bị kẹt lại, sau gần cả tháng kẹt đường kẹt xá, anh lên
tới Sài Gòn, trường chưa mở cửa lại. Vội vã đến nhà cô gái, nguyên một khu phố
tan hoang, nhà cháy không còn một cái, có người chết, hai mẹ con cô gái bán chè
không còn đó, anh bấn loạn, hỏi thăm số người, chắc là người ở đây đang quanh
quẩn tìm tìm kiếm kiếm gì đó trong đám tro than đen mờ bụi, biết hai mẹ con cô
gái bán chè rong nhưng không biết bây giờ ở đâu, cũng có thể chết vì trúng đạn
đại pháo bắn vào. Đau đớn, tan nát hồn, ngơ ngẩn, anh ngồi xuống lề đường, mắt
cay xé đỏ.
Mấy ngày sau, mượn được cái xe đạp cũ của
thằng bạn chung lớp, chạy đôn chạy đáo, hết trường đua Phú Thọ lên Ngã Tư Hàng
Xanh, qua Khánh Hội xuống Phú Lâm, không ai biết, bặt tin, cuối cùng, hy vọng
nhưng đành bỏ cuộc.
Đêm xuống lâu rồi, đèn đường trong ngỏ hẹp đã
lên, anh cứ ngồi bất động trên gác trọ, nhìn xuống chờ, như đã chờ từ chiều,
vẫn chưa có tiếng rao chè ngày cũ, thẩn thờ đứng dậy, chút ánh sáng đèn vàng
vọt từ căn nhà đối diện chiếu ngang qua mặt, anh đi vào, mắt ướt sủng nước mắt,
Sài Gòn giờ giới nghiêm.
Chuyện Năm
Qua
khỏi cầu, ngay khúc quanh lên dốc không xa, ngó ra sông, bờ bên này, căn biệt
thự có lầu, tường leo đầy một màu hoa cánh nhỏ tím, đẹp thật đẹp, nắng lưng
chiều trải ngập sân, lối sỏi trắng đi vào nhà đỏ rợp hoa Sứ nở.
Chuyến xe buýt từ phố chính, tới trạm này thì rẽ qua đường khác, cũng
như mọi ngày, từ chỗ làm anh phải xuống, rồi đi bộ về nhà trọ, nơi anh ở từ
những ngày tay trắng tới xứ người, sau ngày mất nước 30 tháng 4 uất hận, buồn
thảm. Thường thì vậy, chiều này, lần đầu anh thả bộ qua cầu đi vòng thay vì theo
con đường cũ, con đường chắc cũng đã mòn dấu chân mình hơn quá nửa năm nay.
Vừa
ngang qua cổng nhà, anh đứng khựng lại, có tiếng ca sĩ nào đó trong máy hát
vang vọng ra “đêm qua chưa mà trời sao vội
sáng” từ cái cửa sổ mở rộng trên lầu, trời đứng gió, nghe rõ từng chữ, anh
ngạc nhiên, không ngờ là có người mình ở đây, một chút rồi bỏ đi nhưng đi chậm,
cố chờ nghe câu cuối, bài hát quen “rượu
cạn ly uống say tình còn giá, lá trên cành một chiếc cuối bay xa”, nhìn lại
căn nhà sau lưng, anh chợt nhớ.
Anh
con nhà nghèo, ở một xã quê của một tỉnh nhỏ miền Đông. Cô, con gái con nhà
giàu, người Sài Gòn, gia đình làm chủ một số cửa hàng buôn bán đủ loại xe gắn
máy Honda, Suzuki, Vespa... và tủ lạnh máy giặt lớn nhỏ trên các con đường đông
người trong thành phố. Hai người quen học cùng chung ban tại một trường Đại học,
rồi thương nhau, chung đường chung lối, cũng hẹn ngày mai “yêu nhau dài lâu”.
Năm
học thứ hai, bịn rịn xa, cô vào trường khác, nhắm vào mảnh bằng Dược Sĩ, vì nhà
cô còn có một tiệm thuốc Tây lớn trên đường có quán chè Hiển Khánh, cái quán
quá quen của cô cậu học trò mới biết thương trong đó có hai người, đường đi về
từ ngày đó, không muốn, cũng phải có đôi lần chia hai lối rẽ và cũng từ đó anh
một mình với bàn không ghế trống. Anh có
đến nhà chơi vài lần nhưng xem ra và hình như, nghe qua gia cảnh anh, gia đình
cô có vẻ không mấy “mặn mòi” cho lắm.
Ra
trường, anh xuống dạy tại trường trung học ở Mộc Hóa, cô lên năm cuối, chắc bận
học, ngoài mớ thư gởi vẫn thương vẫn nhớ, cô ít khi xuống tỉnh, hè anh có về
Sài Gòn ghé thăm, khoảng cách nghèo giàu chưa thấy gần nhau hơn.
Ba
mươi tháng Tư, miền Nam thua cuộc, sụp đổ, anh cũng như nhiều người bạn cùng
ngành mất việc, lang thang về quê ở với cha mẹ, có lần trở xuống Sài Gòn, thành
phố đã bị đổi tên, cô con gái năm cuối trường Dược đã theo gia đình rời Sài Gòn
từ lâu, theo chuyến tàu vượt biển nào đó, hết rồi thật sao, anh nghẹn ngào. Cũng
còn may, rồi nhờ bạn quen thầy cũ, anh thoát ra xứ người trong một đêm mưa tối
trời tầm tả từ Bến Đáy Trà Vinh.
Sau
giờ học, khóa học bán thời ở trường trưa thứ bảy, trời giữa Đông, co ro lạnh,
áo khoát phủ trùm đầu, một lần nữa, anh thả bộ qua cầu, đi ngang qua cái biệt
thự đầu dốc, mong là sẽ nghe bài hát tình ca quen thuở nào đó nữa. Phía trong
sân nhà, có người con gái đi trước, con bé nhỏ hai ba tuổi theo sau, gọi “mẹ mẹ”, loanh quanh chỉ mấy con bướm
trắng vàng “bước đi bước ở” trên
những cánh hoa Sứ đỏ, anh nhìn vào, chưng hửng, chết trân, đúng là cô nàng,
nhiều năm rồi vẫn hình dáng cũ, anh chết lặng, đứng yên đó, chưa tỉnh hồn dù
trong lòng chợt có nhiều lời muốn nói, không bao lâu, người con trai, trạc tuổi
anh từ trong nhà đi ra, con bé chạy lại, nắm tay gọi “ba ba”, chỉ ra đường. Anh quay mặt đi, hai vợ chồng ung dung, tay
nắm tay nói cười, con bé chạy trước, ra đường, đi về hướng khúc sông trên, có
nhà hàng nhô ra sông, cái nhà thủy tạ và vườn chơi trẻ em nho nhỏ.
Anh
nhìn theo họ một khoảng khá xa, lầm lũi trở ngược đường cũ về, cúi mặt, thôi
cũng đành “đường thênh thang gió lộng một
mình ta”, anh bước nhanh, lòng xe thắt lạnh, một lần nữa anh thầm hát “lá trên cành một chiếc cuối bay xa”.
Từ ngày
đó căn biệt thự trên dốc đồi không còn thấy một người thanh niên lạ, chậm bước,
chờ nghe bài tình ca trước nhà và anh, cũng không có lần nào nữa hối hả qua cầu.
Tháng mưa sớm 2020
No comments:
Post a Comment