Ngày
Đó Và Bây Giờ
Có
cố đi cho lẹ, từ văn phòng ra, giờ tan sở, Quân cũng không kịp chuyến xe lửa về
nhà, không còn ai đứng trên sân ga tuyến đường mình, nắng chập chạp trời chiều
như cố nấn ná làm vui cho đám chim hoang rượt đuổi bóng nhau trên thềm gạch nâu
vàng nhạt dấu chân người. Nhìn qua sân ga bên kia, có tiếng còi vọng lên dưới
phố, tuyến đường ngược ra ngoại ô, đông nghẹt người chờ, nói cười rộn rã, bỏ
túi xách xuống đất, hàng ghế trống trơn, chưa kịp ngồi thì phía dưới con đường
hầm, cô con gái tay xách túi vải có vẻ nặng, hổn hển chạy lên, tới thềm sân ga, ngừng lại thở dốc,
đếm bước đi tới gần chỗ Quân, ngượng ngập nhìn trời rồi nhìn xuống đường sắt,
còn âm ỉ chút hơi nóng của những ngày cuối Hạ.
Vừa
thấy cùng cảnh ngộ, chắc cũng là người mình, Quân đứng dậy, cười làm quen “thôi trể rồi, tôi cũng như cô, thôi mình chờ
chuyến sau, chắc không lâu đâu”, rồi chỉ mấy cái ghế còn trống, cô chắc khoảng
hơn hai mươi, dáng người cao, tóc dài đen mượt, khá xinh, hai má lún chút đồng
tiền nhỏ, áy náy chào lại, nhè nhẹ đi lại ghế, cười ngồi bên anh ta, sân ga bên
kia, chuyến xe lửa ngược ra ngoại ô đến tự nãy giờ vừa rời nhà ga, bỏ tiếng còi ở lại, cả hai người nhìn
theo, không nói gì. Trên chuyến về cùng
đường chiều, hai người quen nhau sau những chuyện hỏi han qua lại, không đầu
không đuôi, xứ người quê mình, cả hai không ngờ là ba của Thảo, tên cô gái và
Quân cùng làm ở một tỉnh trước ngày miền Nam mất, tháng Tư năm 1975. Quân xuống
ga Tottenham, họ chào nhau hẹn có dịp gặp lại đâu đó, cô con gái tiếp tục về
phố biển Williamstown.
Không
đợi cũng đến, tuy không cùng chuyến xe lửa tới chỗ làm, chỗ học, nhưng hai
người lại cùng bên nhau chuyến về, dù có người xuống ga trước người xuống ga
sau, cứ như vậy mà từ quen tới thân chừng nào không hay không biết. Quân thì
làm việc phụ tá cho một văn phòng luật sư, trên lầu đường Collins, trung tâm
thủ phủ tiểu bang, Thảo theo học năm thứ ba, ngành y tá tại trường Đại học Công
giáo bên hông một bệnh viện lớn, ngoài năm ba lần hẹn ngồi ăn trưa với nhau, chiều
nào cũng vậy, hết giờ làm, như một thói quen, Quân đứng chờ Thảo tan trường ra,
về ngang, rồi hai người sánh bước bên nhau nói cười mặc cho rừng người tan sở
hối hả, rầm rập chân trước chân sau tới nhà ga chính, cho kịp chuyến xe lửa về
nhà.
*
Ra
khỏi nhà ga Williamstown, sáng Chủ Nhật, đường phố vắng tanh, băng qua đường,
như lời Thảo chỉ, Quân thấy ngay cây Phượng tím lớn trước sân, nhà Thảo, một
căn nhà gỗ sơn màu vôi nhạt, nằm cách đường xe lửa ra không bao xa, Quân sửa lại
áo chút xíu, tay ôm hộp bánh ngọt mua từ một tiệm bánh khá nổi tiếng người
mình, như là món quà nhỏ làm quen với gia đình, thong thả bước, gió nhè nhẹ từ
ngoài khơi mang theo chút mùi nước biển lùa về ngang, trời ngấp nghé trưa chợt
mát.
Gần
tới cổng nhà, cái cổng sắt thấp, hoen ố màu rĩ sét, lưa thưa ba bốn bụi hoa
vàng, không biết tên gọi, ửng tươi dưới nắng lưng lững trưa, lác đác hai bên
con đường gạch rộng đủ chân người đi vào nhà, Thảo đứng nhìn trời, thấy Quân,
không chờ mà bỏ chạy vụt vô đứng trước cánh cửa mở rộng nói vọng vào gì đó, rồi
mới quày quả trở ra, Quân đẩy cái cổng khép hờ đi vào, chưa kịp nói gì thì từ
trong nhà, ba mẹ và đứa em gái, chắc cũng sấp sỉ mười sáu mười bảy, bước nhanh
ra. Quân đứng khựng lại, trố mắt nhìn, ngạc nhiên cùng lúc chú ba Cần, ba Thảo
cũng không khác gì anh, cả hai thốt lên “ông
phó, chú tư”, rồi, một già một trẻ ôm nhau rươm rướm mắt, ba người còn lại,
đứng chết trân, nắng lùa từng vạt ngẩn ngơ trải dài trong sân, gió hối hả đuổi
tiếng còi xe lửa vừa rời ga Williamstown ngược về phố chợ đi mau, chừng như cố
giữ cái mát lại cho những người đang đứng đó.
*
Ba
mẹ Thảo, người gốc Tuy Hòa Phú Yên, người có đạo, nhưng qua tận Pleiku lập
nghiệp, có cái sạp nhỏ bán rau cải, gia vị nho nhỏ trong chợ, chú tư Cần, ở đây
nhưng không biết do đâu, chú lại là lính Địa phương quân tại tiểu khu Kontum,
rồi bị thương ở chân trái không nặng lắm nhưng có phần đi đứng hơi khập khễnh
chút đỉnh, biết lái xe hơi, chú chuyển qua bên quân xa làm tài xế, rồi được biệt
phái lái xe, cái xe Jeep còn khá tốt cho người khóa đàn anh, vừa đổi ra Quảng
Nam, đường Kontum Pleiku gần, công việc dễ thở, chú đi về cũng tiện, thiếm vẫn
coi sóc sạp bán hàng như từ trước tới nay.
Quân về thay, và từ ngày đó, chú vẫn tiếp tục
việc cũ, thấy Quân còn trẻ quá, xa nhà tội nghiệp nên chú lo lắng cho anh ta
chu đáo hơn, không chỉ chuyện xe cộ xăng nhớt mà còn cả chuyện ăn uống, đi lại
mỗi lần xuống xã này ấp nọ, cứ như vậy mà tình cảm chú cháu ngày càng thân hơn,
chú luôn miệng hy vọng một ngày nào đó, Quân xuống Pleiku thăm gia đình chú một
chuyến làm quen, nhà có hai cô con gái, tuổi chưa tới mười lăm mười sáu, vậy mà
lần lựa, chưa được. Trước ngày Ban Mê Thược mất vài tuần, tình hình xem ra
không yên, nhất là tin chiến trận từ vùng Một, chú xin phép nghỉ mấy ngày, về
nhà, hôm chú trở lên, mới biết chú đóng cửa sạp bán rau cải, đã đưa thiếm và
hai con về Tuy Hòa.
*
Theo
liên tỉnh lộ 7 xuôi Nam, qua Phú Bổn lưng chừng một cái đèo nhỏ thấp không lâu,
chiếc xe Jeep chở gần mười người, không còn xăng còn nhớt cũng như số phận của
hàng trăm chiếc xe đủ loại chen nhau rồi bỏ lại phơi xác trên đường di tản, bọn
Quân quyết định gom góp cái gì cần, còn mang theo được, đẩy xe ủi vào khoảnh đất
dày đặc cỏ tranh cao quá đầu người, rồi tự động chia tay, nhóm hai ba người,
bắt tay chúc may mắn, hẹn gặp lại đâu đó, không lâu sau, họ mất hút trong giòng
người rồng rắn giữa cái nắng như thiêu như đốt của trời cao nguyên tháng Ba,
cũng giống như đám bạn, Quân và chú tư Cần, nhập vào đoàn người, hai chú cháu lầm
lũi lặng thinh đi tới.
Xế
chiều, qua đèo Tuna, cách Hậu Bổn chừng năm sáu cây số, về hướng Tuy Hòa, xuống
tời chân đèo, nắng tím dần màu hoàng hôn, cây cầu Le Bac trước mặt, đại pháo
quân Bắc Việt một lần nữa như những lần dọc theo đường số 7 những ngày trước đã
có, từ xa đâu đó pháo ra, rừng người cả hàng ngàn, hốt hoảng, la hét kéo nhau,
người chạy người nằm loạn đả hai bên đường, tản ra cả ngoài đồng khô cỏ cháy
tránh, pháo một chập rồi ngưng, đêm chập choạng tối dần, người chết người bị
thương rải rác khắp chỗ, tiếng khóc tiếng gào lanh lãnh rợn người.
Cũng
trong cơn hốt hoảng đó, chú tư Cần không may, nằm cách Quân một khoảng, không
xa chỗ cái hố còn khét mùi thuốc súng đạn pháo sâu thẳm, bị mảnh nhỏ trúng vào
khuỷu chân trái, chỗ vết thương cũ lúc còn bên lính tiểu khu, đau nhưng ra máu
không nhiều, trên người chú chỉ có vỏn vẹn cái áo ka ki lính xanh, Quân xé vội
xé vàng áo thun mặc bên trong người, phụ chú cột vết thương, dưới trời mờ mờ
vào đêm, hai người nhìn nhau, xót xa cười.
Đoàn
người tiếp tục đi giữa đêm tối, cũng vẫn dài, đuôi nối đuôi, dài cả mấy cây số,
tuy vết thương không nặng nhưng chú tư Cần đi không vửng lắm, Quân dìu chú một
bên, đi chậm tuột lại phía sau, rồi cũng về tới Cung Sơn rạng sáng sớm hôm sau,
ở đây đã có vô số người di tản đám đi trước tới mấy ngày nay rồi, với một số
quân xa và lính đủ binh chủng, cắm lều dựng mái chật cứng mấy cánh đồng khô trơ
xác rạ bên ngoài, quanh khu phố quận, không có cầu băng qua sông Ba, dù mùa này
nước cạn.
Buổi
sáng đi lên đi xuống, hỏi qua hỏi lại, làm quen với người lính lái một trong
mấy chiếc GMC, đậu gần chỗ bờ ruộng hai chú cháu ngủ, là người từ Kontum, chiếc
xe mui trần, chất nhiều đồ đạc lỉnh kỉnh, chở theo mấy gia đình con cái, trong
lúc đoàn người rục rịch gọi nhau ơi ới qua sông Ba, xe chật nhưng anh vui vẻ
nhận lời cho chú tư Cần quá giang về Tuy Hòa khi biết chú bị thương, chú nhất
định không chịu bỏ Quân ở lại sau một mình nhưng nói qua nói lại một lúc, xe
cũng như người bắt đầu đi, chú cháu bịn rịn từ giã nhau, hẹn gặp lại ngoài đó,
ngồi ở một góc gần bửng sau, xe chạy đi rồi, chú tư cố vẫy tay mà rưng rưng
nước mắt, xe khuất dần giữa rừng người.
Quân
đứng trên bờ đê nhìn theo, thở phào đỡ lo, lầm lũi đi, người thưa dần, có chút
nắng lên bên này sông, anh sờ lên túi áo, tấm giấy tập học trò, ghi địa chỉ nhà
chú tư Cần ngoài Tuy Hòa, còn đó, khô đét, nhàu nát. Xế chiều, súng nổ dữ dội
xa xa, phía trên đầu ấp đập Đồng Cam, đoàn người đoạn sau, có Quân khựng lại,
ngơ ngác nhìn nhau, không thấy bóng dáng mấy chiếc xe GMC đâu nữa, Quân không gặp
lại chú tư Cần từ đó.
Cuối
cùng, mấy ngày sau, Quân lếch thếch rã rời theo đoàn người lớn nhỏ về tới Hiếu
Xương, rồi ra phố chợ Tuy Hòa, đường phố vắng tanh, không mấy người còn đó, tìm
đến nhà chú tư Cần, theo địa chỉ ghi trên tấm giấy còn giữ trong túi áo, hy
vọng gặp lại chú bình an, ở đó không còn ai, người bên cạnh cho biết, chú có về
nhưng cả gia đình đã bỏ đi hôm trước rồi, tuy không gặp nhưng vậy cũng mừng cho
họ. Quân nhét tấm giấy nhầu nát dưới ngạch cửa, thở dài, đoàn người di tản vẫn
dắt díu nhau, tiếp tục đi trên đường nhựa như đã đi từ mươi ngày trước.
*
Ba mẹ con Thảo ngồi sát bên nhau, chăm chú
nghe chú tư Cần nhắc lại chuyện hơn mấy năm trước nhất là chuyện hôm bị thương
vì đạn pháo quân Bắc Việt, chuyện cái vẫy tay bóp bụng chào Quân sáng sớm ở
Cung Sơn khi chiếc xe GMC chạy đi, lặng thinh, đôi lúc nhìn Quân chờ, anh thỉnh
thoảng thêm chút này chút kia, cười cười, nghe mà cứ nói thầm trong bụng “trái đất tròn thật”. Quân ở lại ăn cơm
trưa với gia đình chú, bữa cơm mà hai cô con gái cứ “một anh Quân hai anh Quân” nhưng vợ chồng chú thiếm vẫn một mực hai
tiếng “ông phó”. Xế trưa, cả nhà theo
nhau đưa Quân ra tới nhà ga, đi bên Quân, chú tư nhắc lại nhiều lần mấy tiếng “cám ơn ông phó”. Chuyến xe lửa đến rồi
đi, qua khung cửa sổ nhìn lại phía sân ga, cả gia đình vẫn đứng đó vẫy tay,
khuất dần rồi mất hút, tiếng còi thôi kéo dài, bỗng dưng Quân chợt thấy vui hơn
mọi ngày.
Cuối
năm, sau ngày Thảo tốt nghiệp không lâu, Giáng Sinh, đêm thánh lễ mừng Chúa ra
đời tại nhà thờ của xứ đạo Williamstown, nằm ở góc phố cuối đường ngó ra biển, trong
thánh đường Quân và Thảo đứng sát nhau liền bên cô em út và chú thiếm tư Cần,
hai tiếng A Men của họ hình như nghe rõ hơn tiếng A Men của những người xem lễ
khác sau khi cha xứ chấm dứt bài giảng mừng Chúa ra đời. Một lần nữa, trên gác
cao, có tiếng chuông vang lên rộn rã từng hồi, có tiếng nói tiếng cười chúc
nhau “một mùa Giáng Sinh bình an, hạnh
phúc”, đứng bên nhau thiếm tư nhìn Thảo rồi nhìn qua chú tư cười nhẹ gật
đầu, cái gật đầu tỏ ý mừng vui, cũng lúc đó, Thảo khẻ nắm tay Quân, cả hai cũng
nhìn nhau cười giống như nụ cười mà thiếm vừa có.
Chuyến xe lửa cuối cùng đón người về nội ô sau lễ nửa đêm, thong thả rời
nhà ga, còi vang lên từng chập, kéo dài hơn thường ngày, tiếng còi mừng Chúa
giáng sinh trên cao cũng như chúc lành cho hạnh phúc của hai người nguyện bên
nhau dưới thế.
Thuyên Huy
Xứ người
những ngày sắp vào Xuân 2020
No comments:
Post a Comment