Ca Nhạc Sài
Gòn Trước 30/4/1975
CA SĨ
SAIGON – XUẤT HIỆN TỪ ĐÂU?
Nói đến ca sĩ từ đâu đến hay nôm na
từ đâu mà thành danh. Tôi chợt nhớ đến Chế Linh đầu tiên, nhớ ngay cái ngày một
thanh niên gốc Chàm khúm núm đến gặp Tùng Lâm ở hậu trường rạp Olympic, một sân
khấu đại nhạc hội do quái kiệt Tùng Lâm tổ chức song song với Duy Ngọc ở bên
rạp Hưng Đạo vào mỗi sáng Chủ Nhật.
Tôi nhớ buổi sáng Chủ Nhật hôm đó khi
anh chàng da ngâm đen tóc quăn, ăn mặc nguyên bộ đồ jean. Đến Tùng Lâm cũng
không hiểu tại sao anh ta, một người lạ mặt vào được tận bên trong hậu trường.
Còn đang ngạc nhiên thì anh chàng người Chàm đã tới gặp ngay Tùng Lâm xin cho
được hát vào những lúc ca sĩ còn chạy show chưa kịp đến.
Tùng Lâm quyết liệt từ chối, dù lúc
đó phải đóng màn chờ ca sĩ cũng không dám cho anh chàng người Chàm này lên hát,
một phần do anh ta là người dân tộc thiểu số và cũng chưa từng nghe anh ta hát
bao giờ.
Nhưng kế tiếp những tuần sau, anh
chàng người Chàm lì lợm vẫn đều đặn xuất hiện xin Tùng Lâm cho được hát, và rồi
Tùng Lâm cũng đành chào thua sự lì lợm quá mức này, đành chấp nhận cho anh ta
hát một bài để thử, với lời dặn chỉ hát một bài và không có tiền “cát sê”
Tôi chứng kiến các buổi anh chàng
người Chàm đến và cả buổi đầu tiên được Tùng Lâm cho lên hát một nhạc phẩm của
Duy Khánh, với tên được giới thiệu là Chế Linh. (nghệ danh này sau mới rõ nó có
hai nghĩa, nghĩa thứ thứ nhất là họ Chế để khẳng định là ”con cháu” của Chế
Mân, Chế Bồng Nga. Nghĩa thứ hai có nghĩa là “lính chê” bởi người thiểu số được
miễn hoãn quân dịch).
Không rõ Chế Linh có được học hát hay
có thiên bẫm hát theo đĩa hay băng nhạc mà nhiều nam nữ mầm non ca sĩ thường
hát nhái đến thuộc lòng, đến khi bài hát chấm dứt thì hàng loạt tiếng vỗ tay
nổi lên tán thưởng kèm theo những tiếng gào “bis, bis” nổi lên ầm ỉ nơi hàng
ghế khán giả.
Nhưng nhìn những người ái mộ vỗ tay
gào thét kia lại chính là đồng hương của Chế Linh, do chính Chế Linh bỏ tiền ra
mua vé cho họ vào xem và chờ đợi cái ngày hôm đó, để chỉ làm một động tác vỗ
tay hoan hô và gào lên những tiếng bis, bis.
Do không được ai lăng xê, không được
ai kèm cặp, Chế Linh thường hát nhái theo giọng ca Duy Khánh và cả những bài
hát tủ của Duy Khánh từng thành đạt. Và nhờ những đồng hương hàng tuần đến vỗ
tay, sau này Chế Linh được Tùng Lâm nhận làm “đệ tử” trong lò đào tạo ca sĩ của
mình (?).
Từ lúc đó Chế Linh mới được uốn nắn
rèn giũa lại chính giọng ca của mình.
Khi nói đến những lò “đào tạo ca sĩ”
thường là những nơi có môi trường “lăng xê”, như nhạc sĩ Nguyễn Đức có hai
chương trình trên Đài Truyền Hình số 9 là Ban Thiếu Nhi Sao Băng và chương
trình Nguyễn Đức, cùng hai chương trình trên Đài phát thanh là Ban Việt Nhi,
ban ABC. Còn quái kiệt Tùng Lâm có Đại nhạc Hội, và chương trình Tạp Lục trên
truyền hình. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với đoàn văn nghệ Hoa Tình Thương của
TC/CTCT mà Song Ngọc đứng đầu tàu.
Đây là những lò nhạc giới thiệu nhiều
ca sĩ nhất trong thời gian đó. Như lò Nguyễn Đức có một lô ca sĩ họ Phương gồm
Phương Hồng Loan, Phương Hoài Tâm, Phương Hồng Hạnh, Phương Hồng Quế, Phương
Hồng Ngọc (Cẩm Hồng) hay trước đó là Hoàng Oanh có cả nghệ sĩ hài như Thanh
Hoài, Trần Tỷ.
Lò Tùng Tâm giới thiệu Trang Thanh
Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến rồi Chế Linh, Giang Tử. Lớp nhạc Bảo Thu có
Thanh Mai, Thanh Tâm sau này Kim Loan; Hoàng Thi Thơ có Sơn Ca, Bùi Thiện, Họa
Mi v.v…
Trở lại với Chế Linh, tuy quái kiệt
Tùng Lâm có môi trường “lăng xê” nhưng về chuyên môn dạy thanh âm cho ca sĩ lại
“mù tịt”; qua đó đã liên kết với nhạc sĩ Bảo Thu và Duy Khánh đào tạo hay lăng
xê Chế Linh trở thành một danh ca như từng đào tạo lăng xê ra những Trang Thanh
Lan, Trang Mỹ Dung, Trang Kim Yến… Vì từ lò Bảo Thu (còn là ảo thuật gia Nguyễn
Khuyến) cùng Duy Khánh (khi đó ở chung cư Trần Hưng Đạo) đã cho “ra lò” nhiều
ca nhạc sĩ như Quốc Dũng, Thanh Mai, Thanh Tâm, Kim Loan…
Việc liên kết giữa Tùng Lâm – Bảo Thu
– Duy Khánh làm cho nhiều lò đào tạo ca sĩ bấy giờ lên cơn sốt, bởi ở đây có đủ
môi trường để các tài năng trẻ thi thố tài năng, Tùng Lâm có sân khấu đại nhạc
hội, Bảo Thu có chương trình truyền hình; dạy thanh âm và cung cách biểu diễn.
Chế Linh nhờ vào “lò” Tùng Lâm mà thành danh cho đến ngày nay.
Tuy nhiên ngoài những lò “đào tạo ca
sĩ” nói trên cũng có những ca sĩ thành danh từ những phòng trà khiêu vũ trường,
trong phong trào văn nghệ học đường, đại hội nhạc trẻ, những đoàn văn nghệ do
chính quyền thành lập. Như Vi Vân, Julie Quang, Carol Kim, Đức Huy, Ngọc Bích,
Thúy Hà Tú (Khánh Hà – Anh Tú), Thanh Tuyền, hài có Khả Năng, Thanh Việt, Phi
Thoàn, Xuân Phát…
Elvis Phương nổi danh từ l1972 thời
gian vào lúc do Thanh Thúy đang khai thác phòng trà Queen Bee cùng với ông Tuất
(sau thời kỳ Khánh Ly), nhưng Elvis Phương đã tạo cho mình một chỗ đứng lúc còn
là học sinh cùng với ban nhạc trẻ học đường. Sau đó Elvis Phương đi hát cho
nhiều phòng trà nhưng do không ai dìu dắt lăng xê đến nơi đến chốn nên vẫn chỉ
là cái bóng của những đàn anh àn chị.
Khi Thanh Thúy khai thác Queen Bee,
có nhạc sĩ Ngọc Chánh làm trưởng ban nhạc Shotguns cùng Cao Phi Long, Hoàng
Liêm, Đan Hà; và hội nhập vào làng sản xuât băng nhạc 1972. Elvis Phương mới
được biết đến từ đó (1969). Tuy vậy Ngọc Chánh không cho mình đã tạo ra tên
tuổi Elvis Phương, anh chỉ có công “lăng xê” còn giọng hát của Elvis Phương là
do thiên phú hay từ môi trường văn nghệ học đường mà thành công.
Các lò đào tạo ca sĩ ngoài những môi
trường để dễ dàng “lăng xê” gà nhà, nhưng muốn lăng xê một ca sĩ còn phải qua
nhiều cửa ải khác, như tìm một nhạc phẩm thích hợp với giọng ca để ca sĩ chọn
làm bài hát tủ như người ta thường ví đo ni đóng giày.
Bài hát tủ như khi nghe Phương Dung
hát chỉ có bài Nổi Buồn Gác Trọ là nổi bật, nghe Túy Hồng biết đang hát nhạc
của Lam Phương (cũng là chồng của Túy Hồng), nghe Thanh Thúy lúc nào cũng có
bản Ngăn Cách của Y Vân, Thanh Lan với các ca khúc Bài không tên cuối cùng của
Vũ Thành An hay Tình khúc… của Từ Công Phụng, Lệ Thu với Nữa hồn thương đau của
Phạm Đình Chương, Thái Thanh thì chỉ có Dòng Sông Xanh nhạc Việt hóa của Phạm
Duy, Khánh Ly ngoài những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, thường tìm cho mình con
đường mới là hát nhạc tiền chiến của Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Văn Cao. Phương Hồng
Quế với Phố Đêm, Những chuyện tình không suy tư của Tâm Anh v.v…
Sau khi ca sĩ có những bài hát tủ,
các lò còn phải nhờ báo chí viết bài ca tụng tán dương, bỏ tiền cho các tạp chí
lên ảnh bìa hay nhờ báo chí cho đứng tên một mục thường xuyên nào đó như phụ
trách trang nhi đồng, giải đáp tâm tình, trả lời thư tín, nhưng các ông bầu đào
tạo thường trao đổi ca sĩ cho nhau giữa các show truyền hình truyền thanh, vì ít
tốn kém và hiệu quả, tạo đến tai nghe mắt nhìn cho khán thính giả một cách thực
tế, được chú ý hơn.
Một Phương Hồng Quế có thời gian
chiếm lĩnh trọn vẹn trên truyền hình, từ show này đến show khác, được phong
tặng ”Tivi Chi Bảo“, giữ trang Vườn Hồng, Họa Mi trên báo Tin Điển, Chuông Mai,
Trắng Đen, Đồng Nai, Hòa Bình cùng Phương Hồng Hạnh.
Nhưng ai có biết Nguyễn Đức đã bỏ ra
bao nhiêu tiền để Phương Hồng Quế, Phương Hồng Hạnh dược như thế ? Chị em Thanh
Thúy, Thanh Mỹ giữ mục Trả Lời Thư Tín trên báo Tiếng Dân, sau này cô em út là
Thanh Châu trên báo Trắng Đen v.v..
Tất cả chỉ là cái tên trên báo, vì đã
có người làm giúp viết giúp và lãnh tiền giúp, đó là những ngón nghề lăng xê ca
sĩ từ các lò ”đào tạo ca sĩ“.
Đa số các lò nhạc chỉ thích lăng xê
”nữ ca sĩ ” hơn nam vì có nhiều lý do, nhưng lý do dễ hiểu nhất đa số… các ông
thầy đều có máu dê.
Có một giai thoại, người ta đồn một
nhạc sĩ gốc mật vụ đệ tử Trần Kim Tuyến thời Ngô Đình Diệm, rất thích các nữ
nghệ sĩ, muốn cô nào từ ca sĩ đến kịch sĩ là nhờ bọn đàn em mời về cơ quan hứa
hẹn dành cho họ nhiều ưu đãi trong nghề nghiệp với điều kiện cho ông ta được
”thưởng thức“, sau đó giữ bí mật chuyện giữa ông ta với nàng.
Chuyện bí mật đó là gì ? Trước đó tức
trước khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, có lần ông nhạc sĩ mật vụ còn cao hứng đòi
lấy một nữ kịch sĩ làm vợ, khiến cô nàng sợ quá vọt trốn ra nước ngoài sống mấy
năm mới dám về Sài Gòn hoạt động kịch nghệ trở lại (cũng nhờ ra nước ngoài mà
sau này được trọng vọng thành người thân Cộng ).
Không phải người nữ nghệ sĩ này không
khoái ông sĩ quan mật vụ, mà không khoái khi nghe ông bầu show là quái kiệt
Trần Văn Trạch của “Đại Nhạc Hội Một Cây” nói đến tính bất lực của ông ta. Vậy
mà sau này có những con thiêu thân “ca sĩ mầm non” đang bán phở hủ tíu,
chấp nhận cho ông ta được “thưởng thức” để có môi trường trở thành nữ danh ca
..
TOÀN CẢNH TÂN NHẠC MIỀN NAM
Bước vào những năm 63 – 70 của thập
kỷ trước, phong trào Kich Động Nhac và Nhạc Trẻ bắt đầu xâm nhập mạnh, các ca
khúc lãng mạn hay lá cải gần như chìm lắng nhường cho nhạc ngoại quốc được Việt
hóa, lý do Bộ Thông Tin & Tâm Lý Chiến bấy giờ ra lệnh các nhạc phẩm VN
phải có lời mang tính ca tụng người lính hay tính chiến đấu.
Những nhạc phẩm sặc mùi chiến tranh
tâm lý chiến như Lính Dù Lên Điểm, Người Ở Lại Charlie, Đám Cưới Nhà Binh, Hoa
Biển, Anh Không Chết Đâu Em, Câu Chuyện Chiếc Cầu Đã Gãy, Kỷ Vật Cho Em, Mùa
Thu Chết v.v.. ra đời.
Loại kích động nhạc, nhạc VN tâm lý
chiến có Trần Trịnh viết cho Mai Lệ Huyền lúc đó đang còn sống chung (sau Mai
Lệ Huyền lấy một đạo diễn trên đài truyền hình số 9 rồi mới vượt biên), hát cặp
với Hùng Cường thuộc loại ăn khách.
Nhật Trường – Trần Thiện Thanh viết
cho chính anh cùng với Thanh Lan. Còn Khánh Ly, Lệ Thu chỉ nỉ non hát những bài
của Phạm Duy như Mùa Thu Chết, Kỷ Vật Cho Em, Giọt Mưa Trên Lá… Các nhạc sĩ
khác không có nhạc phẩm mới chỉ cho ca sĩ nhai đi nhai lại các bài hát cũ.
Vì vậy nhạc Pop Rock – Việt hóa ăn
khách do không nằm trong lệnh của bộ thông tin & tâm lý chiến. Những ca
khúc trữ tình như Hởi Người Tình La-ra nhạc phim Dr.Zivago, Roméo Juliette,
Giàn Thiên Lý Đã xa, Khi Xưa Ta Bé, Lịch Sử Một Chuyện Tình… được ra đời. Trước
đó xuất hiện cùng những ca sĩ ban nhạc Black Caps, Les Vampires, Rockin Stars,
The 46, Fanatiques, Spotlights, và phong trào Viet Hóa như Phượng Hoàng, Mây
Trắng (Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Trung Hành, Elvis Phương), CBC (Bích
Liên), Crazy Dog (Những đứa con của cặp nghệ sĩ Việt Hùng – Ngọc Nuôi với Ngọc
Bích đầu đàn)
Ba Con Mèo (có Vi Vân, Julie và Mỹ
Hòa), Tú Hà Thúy ( Anh Tú, Khánh Hà, Thuy’ Anh) và những ”thủ lãnh” phong trào
lúc đó là Nhac Trẻ: Trường Kỳ, Tùng Giang, Đức Huy, Kỳ Phát, Nam Lộc.
Nên phải nói rằng nền ca nhạc ở Sài
Gòn từ những năm 60 đến 75 mới thực sự có nhiều điều để nói, vì trước đó thời
TT Ngô Đình Diệm cấm mở khiêu vũ trường, nên sinh hoạt tân nhạc còn trong phạm
vi thu hẹp chỉ có Đài phát thanh, Phòng trà và Đại Nhạc Hội. Trong thời gian
này có Ban Thăng Long với Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Thanh, Thái Hằng, nhạc hài
hước có Trần Văn Trạch, song ca Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết hay Thúy Nga với
tiếng đàn phong cầm (sau thành vợ Hoàng Thi Thơ ), Duy Trác, Bạch Yến, Thanh
Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung, Ánh Tuyết, Cao Thái…
Do thiếu hụt ca sĩ, các tay tổ chức
Đai Nhạc Hội thường đưa vào các tiết mục múa của Lưu Bình, Lưu Hồng, Trịnh
Toàn, kịch nói chưa phát hiện ra Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, La Thoại Tân, Vân
Hùng… chỉ có những nghệ sĩ gần đứng tuổi như Phùng Há, Bảy Nam, Năm Châu, Ba
Vân, Bảy Nhiêu, Hoàng Mai, Anh Lân, Kim Lan, Kim Cúc, Túy Hoa, Xuân Dung hay
cua-rơ Phượng Hoàng Lê Thành Cát (một kịch sĩ nghiệp dư) chiếm lĩnh sân khấu
cùng kịch sĩ đất Bắc như Lê Văn, Vũ Huân, Vũ Huyến…
Thời gian 1965 – 1975 giới thưởng
thức tân nhạc bắt đầu chia khán giả cho từng loại ca sĩ :
– SVHS thì thích những giọng hát của
Thanh Lan, Khánh Ly, Lệ Thu, Xuân Sơn, Anh Khoa, Jo Marcel, Sĩ Phú, Paolo Tuan,
Elvis Phương bởi khi hát có chọn lọc nhạc phẩm mang tính nghệ thuật cao cấp.
– Đại đa số quần chúng lại thích nghe
Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung, Thanh Tuyền, Túy Hồng, Nhật Trường, Thái
Châu hát những nhạc phẩm bậc trung nẳm giữa nghệ thuật và thị hiếu.
Còn lại các ca sĩ như Chế Linh, Duy
Khánh, Hùng Cường, Mai Lệ Huyền, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Giang Tử, Trang Thanh
Lan, Thanh Hùng, Trang Mỹ Dung, Thiên Trang hát các bài được soạn theo kiểu
tiểu thuyết lá cải như Chuyện tình Lan và Điệp, Nhẫn cỏ cho em, Đồi thông hai
mộ, Rước tình về với quê hương … được giới bình dân ưa thích. (gọi là “nhạc
sến”)
Cho nên giới sản xuất băng nhạc bấy
giờ rất kén ca sĩ hát cho nhãn băng nhạc, nếu nhãn băng nhạc nào có những Lệ
Thu, Khánh Ly, Elvis Phương, Thanh Lan v.v… thì sẽ không có những Chế Linh,
Giao Linh, Trang Mỹ Dung, Giang Tử, Duy Khánh v.v…
Khán thính giả đã phân chia hạng bậc
ca sĩ nhạc phẩm để thưởng thức. Ông bầu Ngọc Chánh liền cho ra nhiều nhãn hiệu
băng mong chiếm trọn thị trường, vì làm băng nhạc phải nhạy bén với lớp người
thưởng ngoạn do đã phân chia ra từng lớp :
– Shotguns dành cho lớp người có
trình độ thưởng thức cao.
– Nhãn băng Thanh Thúy dành cho mọi
tầng lớp khán thính giả.
– Nhãn băng Hồn Nước có Chế Linh, Duy
Khánh, Trang Mỹ Dung, Phương Hồng Quế v.v…
– Phục vụ thành phần cao niên hoài cổ có băng nhạc Tơ Vàng của Văn Phụng Châu
Hà, quy tụ những ca sĩ di cư từ đất Bắc như Duy Trác, Châu Hà, Kim Tước, Thái
Thanh, Sĩ Phú qua những nhạc phẩm tiền chiến của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Từ Linh,
Dương Thiệu Tước, Nghiêm Phú Phi, Phạm Duy, Phạm Đình Chương… vừa có nhạc tiền
chiến vừa có nhạc hiện đại của những nhạc sĩ tên tuổi.
– Tầng lớp SVHS có nhãn bang hiệu
Shotguns, Khánh Ly, Jo Marcel để nghe nhạc phẩm Phạm Duy, Phạm Đình Chương,
Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Y Vân, Phạm Thế Mỹ,
Nguyễn Ánh 9.
– Giới bình dân có rất nhiều nhãn
hiệu băng như Hoàng Thi Thơ, Họa Mi, Hồn Nước, Chế Linh, Âm Thanh, Trường Sơn,
Nguồn Sống qua nhạc phẩm Châu Kỳ, Mạnh Phát, Anh Việt Thu, Đỗ Lễ, Trầm Tử
Thiêng, Vinh Sử, Tú Nhi, Hàn Châu, Song Ngọc, Duy Khánh, Thanh Sơn, Y Vũ, Trần
Trịnh, Tâm Anh, Đynh Trầm Ca…
– Nhạc trẻ có nhóm Trường Kỳ, Tùng
Giang, Kỳ Phát đều có nhãn băng nhạc riêng, riêng kiosque của chị em Thúy Nga
(không phải vợ Hoàng Thi Thơ) lúc đó chỉ chuyên sang nhạc đĩa nhac Ngoai Quốc
nước ngoài mang nhãn Selection hay Anna / Hon Hoang .
Thế giới ca nhạc Saigon đã phân chia
thứ bậc theo sự thưởng ngoạn, ca sĩ cũng được phân chia ngôi thứ rõ ràng, đó là
đặc tính của tân nhạc miền Nam ngày trước… tháng 04 /1975.
CẶP TRỊNH
CÔNG SƠN
&
KHÁNH LY
Từ ngày tôi viết báo và làm báo đến
ngày Sài Gòn “đứt phim” nhiều lần tôi viết về Trịnh Công Sơn, dù đến bây giờ
giữa tôi và họ Trịnh chưa một lần tiếp xúc, có lẽ vì Trịnh Công Sơn quá cao
ngạo thường nghĩ mình là cái “rún” của nền âm nhạc Việt Nam từ trước và sau
1975, đồng thời họ Trịnh còn phân biệt địa phương chỉ thích giao tiếp với người
gốc Huế hay gốc Bắc di cư 1954 sau này 1975, còn người làm báo miền Nam (ngày
xưa có hai phe báo Nam báo Bắc, có cả 2 nghiệp đoàn ký giả Nam Bắc khác nhau),
họ Trịnh tỏ ra không mặn mà để giao tế hay tiếp xúc.
Tôi nhớ vào khoảng năm 1964-65 phong
trào Sinh Viên Học Sinh xuống đường đang bộc phát mạnh từng ngày. Ngày nào SVHS
cũng xuống đường đòi xé Hiến chương Vũng Tàu của tướng Nguyễn Khánh, rồi một
Quách Thị Trang nữ sinh trường Bồ Đề (Cầu Muối) ngã xuống do lạc đạn tại bồn
binh chợ Bến Thành trong một đêm đầy biến động với lựu đạn cay và cả tiếng súng
thị oai của cảnh sát bót Lê Văn Ken, và từ đó nổi lên phong trào hát du ca,
toàn ca khúc phản chiến.
Cũng từ đó quán cà phê Văn được hình
thành trên một bãi đất gò rộng lớn, bãi đất này từ thời Pháp từng được dùng làm
khám lớn còn gọi bót Catinar bên hông pháp đình Sài Gòn. Bãi đất được chính
quyền Nguyễn Khánh mà mị ve vuốt cấp cho SVHS làm trụ sở Tổng Hội Sinh Viên do
Lê Hữu Bôi, Nguyễn Trọng Nho đang lãnh đạo phong trào SVHS xuống đường, để đổi
lấy sự yên tĩnh cho thủ đô.
Quán cà phê Văn nằm sau trường Đại
Học Văn Khoa, lúc đó do nhóm sinh viên đang theo học tại đây dựng lên và đặt
thành tên gọi, được đông đảo anh chị em SVHS ủng hộ hàng đêm cả ngàn người đứng
ngồi trên bãi cỏ, mở đầu nghe phong trào hát du ca của cặp Trịnh Công Sơn –
Khánh Ly qua những Ca khúc Da Vàng.
Trịnh Công Sơn và Khánh Ly mới từ Đà
Lạt vào Sài Gòn. Phong cách biểu diễn của Khánh Ly lúc đó rất bụi, chân đất,
miệng phì phà điếu thuốc Salem và hát những bài do Trịnh Công Sơn sáng tác và
đệm đàn. Bấy giờ người ta đã đặt cho Khánh Ly cái tên “ca sĩ cần sa”, “tiếng
hát ma túy” v.v… vì giới SVHS thời đó, nhất là giới nữ chưa thấy một ai dám cầm
điếu thuốc hút phì phèo nơi công cộng như thế, xem như một cuộc cách mạng trong
giới trẻ.
Trước thời gian này họ Trịnh tuy đã
có nhiều sáng tác nhưng chưa được ai biết đến như bài Ướt mi, Lời Buồn Thánh,
Xin mặt trời ngủ yên (liên hoàn khúc) chưa hội nhập được vào giới ca sĩ phòng
trà. Nên biết rằng, ca sĩ thời đó thường hát các nhạc phẩm của những nhạc sĩ đã
thành danh như Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Dương Thiệu Tước, Hoàng Thi Thơ, Lam
Phương, Mạnh Phát, Châu Kỳ, Văn Phụng, Lê Dinh, Anh Bằng, Y Vân, Lan Đài…
những nhạc phẩm mang tính đại chúng, còn nhạc và tên tuổi của họ Trịnh hãy còn
quá xa lạ với mọi người; các ca sĩ không dám hát sợ rằng khán thính giả sẽ tẩy
chay khi hát những nhạc phẩm của người không tên tuổi.
Lúc đó Khánh Ly cũng như Trịnh Công
Sơn đều chưa có chỗ đứng trong sinh hoạt tân nhạc, khán thính giả chỉ biết đến
những ca sĩ như Thái Thanh, Hà Thanh, Mai Hương, Châu Hà, Duy Trác, Ngọc Cẩm,
Nguyễn Hữu Thiết, Hoài Trung, Hoài Bắc hoặc trẻ trung như Thanh Thúy, Minh
Hiếu, Phương Dung v.v…
Khi được giới SVHS chào đón trên bãi
đất Văn, bấy giờ Trịnh Công Sơn – Khánh Ly mới được mọi người để ý, bởi lời
nhạc và cung cách biểu diễn của cả hai đang cách tân truyền thống cũ; nhưng
tiếp đó cặp Vũ Thành An – Thanh Lan rồi Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên tuy đi sau
nhưng lại nổi đình nổi đám cũng từ phong trào hát du ca này. Các nhạc sĩ sau
soạn nhạc cũng dành cho giới trẻ cho tầng lớp người mới có kiến thức. Lời nhạc
không rên siết bởi tiếng bom đạn mà rất du dương tình tứ đến lãng mạn gieo đến
tâm hồn người nghe ngọn gió mới.
Sau đó quán cà phê Văn đâm ra “hắt
hủi” cặp Trịnh Công Sơn – Khánh Ly, vì tính theo tần suất ái mộ, giới SVHS bắt
đầu thích nghe “Những bài không tên”, “Bây giờ tháng mấy”, “Áo lụa Hà Đông” hơn
“Gia tài của mẹ”, “Ca khúc da vàng” v.v…
Các nhạc sĩ trẻ Vũ Thành An, Từ Công
Phụng, Ngô Thụy Miên đã khai phá nguồn gió mới cho quán Văn, ngược với dòng
nhạc và phong cách sáng tác nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn chống chiến
tranh. Lúc này giới trẻ SVHS cảm thấy dòng nhạc của các nhạc sĩ trên có lời ca
rất lãng mạn trữ tình luôn qua tiếng hát của Thanh Lan. Chính vì vậy Thanh Lan
có nhiều lợi thế hơn Khánh Ly vì được giới SVHS ủng hộ đông đảo hơn, một phần
do Thanh Lan là sinh viên Văn Khoa và cà phê Văn như sân nhà. Sau đó còn có cặp
ca nhạc sĩ Lê Uyên và Phương v…v…
Trịnh Công Sơn – Khánh Ly bắt buộc
phải chuyển thể theo trào lưu, không hát nhạc phản chiến, cả hai muốn lấy lại
tư thế “người của mọi người” nên chuyển đề tài qua tình ca như dòng nhạc của Vũ
Thành An, Từ Công Phụng hay Ngô Thụy Miên; và Diễm Xưa lại được Khánh Ly thể
hiện xem như ca khúc lãng mạn của Trịnh Công Sơn nhằm đối kháng với “Những bài
không tên”, “Bây giờ tháng mấy”, “Áo lụa Hà Đông”, sau Diễm Xưa tiếp tục với
Lời Buồn Thánh, Mưa hồng, Biển nhớ, Tình xa, Một ngày như mọi ngày…
Nói như vậy cho thấy Trịnh Công Sơn
đi trước về sau qua những bản nhạc tình.
Cuối cùng tôi gặp Trịnh Công Sơn vào
trưa ngày 30/4/75 tại Đài phát thanh Sài Gòn. Trưa hôm ấy có lẽ Trịnh Công Sơn
muốn đến kêu gọi giới văn nghệ sĩ (vì vẫn coi mình là cái “rún” của nền âm nhạc
miền Nam ?) bình tĩnh và ủng hộ chính quyền quân quản, còn tôi đến để lấy tin
làm báo, vì tờ báo tôi được uỷ quyền còn ra đến số báo đề ngày 2/5/75. Và đúng
như bài của Trịnh Cung viết về Trịnh Công Sơn, trưa đó họ Trịnh chẳng nói được
lời nào sau micro, còn Tôn Thất Lập có nói gì với họ Trịnh không thì tôi “bó
tay” do lúc này ở phòng thu người chật như nêm, ai cũng muốn chen vào muốn “có
tiếng nói” làm “ông kẹ ba mươi tháng tư” kể cả tên mặt rô ở chợ Cầu Muối cũng
có mặt muốn kêu gọi bạn hàng chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Muối hợp tác với ban
quân quản.
Sau ngày 30/4 ai cũng thấy rõ chiến
tuyến của họ Trịnh và Khánh Ly. Quả thật Trịnh Công Sơn phản chiến vì thân
cộng, còn Khánh Ly lại thuộc thành phần chống cộng. Có người hỏi tại sao Khánh
Ly lại ra đi không cùng họ Trịnh ở lại để hưởng phước lộc trong xã hội chủ
nghĩa, khi cả hai từng có công trạng gián tiếp xúi giục mọi người phản chiến,
thanh niên trốn quân dịch; vì cả hai như cặp bài trùng ?
Khi hỏi cũng đã có câu trả lời, vì
khi phong trào du ca không còn tồn tại, chỉ còn nhóm “Hát cho đồng bào tôi
nghe” của Nguyễn Đức Quang, Miên Đức Thắng, Tôn Thất Lập “hát chui” ở đâu đó.
Còn Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã tách ra thành hai, bởi cả hai đâu phải đôi
“thanh mai trúc mã”, một người bị chứng bất lực còn một người đang tràn trề
sinh lực của lứa tuổi thèm yêu.
Trước đó Khánh Ly đã ấy một đại úy
biệt kích to con lực lưỡng làm chồng, còn là một bảo kê cho phòng trà khiêu vũ
trường của vợ trên đường Nguyễn Huệ (Queen Bee) sau chuyển qua đường Tự Do
(Khánh Ly). Do vậy Khánh Ly phải xa họ Trịnh để đến đất nước của Nữ thần tự do,
còn nếu ở lại với lý lịch lấy chồng sĩ quan ngụy quân sẽ bị trù dập “ngóc đầu
lên không nổi”.
Tuy vậy khi qua Mỹ, Khánh Ly không
còn nhớ đến người chồng biệt kích còn đang học tập cải tạo ở quê hương, liền
lấy ngay một ký giả từ Sài Gòn cũng vừa di tản để cả hai tiếp tục hô hào chống
cộng.
Còn Trịnh Công Sơn, khoảng thời gian
mười năm sau ngày Sài Gòn “đứt phim”, họ Trịnh lại bắt đầu nổi tiếng (?), còn
tại sao nổi tiếng khi Trịnh Công Sơn chỉ có những bản nhạc “nhạt như nước ốc”
sáng tác cổ động cho phong trào thanh niên xung phong hay học đường theo huấn
thị của ông Sáu Dân, việc này mọi người đã biết tôi không nói thêm nữa.
Sự trở lại với nền âm nhạc sau nhiều
năm vắng bóng để Xuân Hồng, Trần Long Ẩn… làm mưa làm gió, nên mọi người còn
nhớ Trịnh Công Sơn và báo chí lại đưa tên tuổi họ Trịnh lên chín tầng mây. Và
mặc dù bị chứng bất lực nhưng cũng có vài con thiêu thân chịu sa ngã để được
“dựa hơi”, mong “hơi hám” của họ Trịnh sẽ cho mình chút hư danh, như cô ca sĩ
HN vừa loé lên đã tắt lịm, bởi nhạc cũ họ Trịnh thì chưa được hát còn nhạc mới
lại nhạt nhẻo chỉ dành cho thiếu nhi hay hát vào mỗi lúc hô “khẩu hiệu”mà thôi.
Biết rằng nhạc không còn hồn, không
còn sôi nổi cuốn hút người nghe như thời trước 1975, Trịnh Công Sơn mở quán cà
phê trên đường Phạm Ngọc Thạch tức đường Duy Tân cũ, rồi bắt đầu vẽ hươu vẽ nai
rồi nhờ mấy tên ký giả cà phê “lăng-xê” nét vẽ không thua gì những Phạm Cung,
Trịnh Cung… có người đòi mua cả vài ngàn đô ?!. Vậy là hết cuộc đời âm nhạc để
rồi chết vì nghiện rượu, mà tác phẩm để lại được mọi người còn nhớ đến toàn
nhạc phẩm của những ngày trước 30/4.
Nguyễn Việt
304Đen – Llttm - tvvn
No comments:
Post a Comment