Chuyện Thầy Tôi
Mượn nhân vật tôi, viết
bằng tưởng tượng, có một số địa danh thật, kể chuyện của một người, có cuộc đời
gần giống như vậy nhưng không phải là người trong chuyện.
Nhà thầy nghèo, trong đầu óc của thằng nhỏ mới từ tiểu học làng, chập chững
lên Đệ Thất trường tỉnh, chỉ biết là nghèo nhưng nghèo ra sao, tới độ nào thì
mù tịt. Cũng ngộ, nhà thầy, mái tranh, không thấy cửa nẻo gì, trước sau cũng
kín kín hở hở, nhỏ lắm nhưng có một khoảnh sân bên hông cửa trước rộng, cất
trên một nền màu vàng đất khô sạch sẽ, một bên nhà tựa vào tường gạch của căn
phố tiệm buôn tạp hóa ngoài mặt đường, làm tường nhà mình, ngay ngã ba, đường tỉnh
lộ và ngỏ ra sông lớn. Thầy không có ba, chỉ có bà mẹ già mà tôi kêu là bà Ba,
bà vui tính, mặt mài nhân hậu, giống như thầy, cười nhiều hơn buồn.
*
Gọi là thầy, chứ thầy học chung trường tỉnh với tôi, lớp Đệ Nhị, thầy học
giỏi lắm, tôi và thầy cùng ở trọ một nhà, tại một căn biệt thự nhà giàu, ông chủ
đã hưu trí từ lâu, ở lưng chừng con đường dốc, cây xanh bóng mát hai bên, không
mấy xa trường, trong nhà còn có thêm hai anh nữa, một anh quê đâu đó ở Trãng
Bàng “Tha La xóm Đạo” lớp Đệ Nhất, anh kia người Bến Cầu “xứ Năm con
Rồng”, lớp Đệ Tứ, anh nào cũng dễ mến, nhỏ nhẹ, sẳn lòng chỉ dạy tôi, thằng
em còn lơ ngơ đủ chuyện.
Hè về, nghỉ bải trường, cuối năm Đệ Thất, ba tôi cho xuống thầy học
thêm, dạy kèm toán, hai ba ngày một tuần, vì ông thấy tôi môn toán làm sao đó,
dù kết quả học bạ cuối năm không tệ, nhưng thật tình không xuất sắc lắm. Nhà
tôi ở xã trên, tại chợ làng, từ đây đi tới nhà thầy chừng bốn năm cây số, mỗi
sáng ông chở tôi bằng chiếc xe Goebel Đức cũ xuống học, rồi bỏ đó về lại nhà,
trưa xuống đón về, không quên trả tiền công, thầy vui vẻ nhận lấy, bà Ba cũng
cám ơn ba tôi hoài. Chỉ có một thầy hai trò, bên phía tường gạch, thầy gắn tạm
cái bảng đen, không biết kiếm ở đâu ra, đứa kia cũng là thằng bạn quen, cững học
cùng lớp trên tỉnh, cách nhà thầy chứng chục căn, qua một đám ruộng trống khá rộng,
gia đình có chiếc xe hơi Peugeot 403, làm xe đò đón đưa người lên tỉnh, xuống
quận.
Nhà thầy không có vách che cửa trước, hai đứa ngồi ngay bộ ván gỏ, vừa học
vừa ngó ra đường, đặc biệt là ngó qua căn nhà gạch, hao hao giống cái biệt thự,
sân trước sân sau rộng, cây cỏ lá hoa xanh ngát đủ màu, đối diện, ngay ngã ba,
thỉnh thoảng có hai cô con gái chạy ra chạy vô, rồi băng qua tiệm tạp hóa bên
này, thấy hai đứa ngó mộng ngó mênh, thầy thấy cũng tức cười, để tự nhiên,
không thúc học, thằng bạn rù rì, hai cô con gái đó là con của chủ tiệm và cũng
là chủ căn biệt thự bên kia, cô lớn tên Cúc, học lớp Đệ Tứ, cô em tên Mai, năm
tới lớp Đệ Thất dưới trường quận. Thằng bạn này, mới từng tuổi này mà khoái làm
thơ, tối ngày tìm câu lựa chữ, cho nên hai thằng nói chuyện “trớt quớt”,
vậy mà tôi cũng bắt chước theo, lên tỉnh, trong lớp cứ đọc “Lục Vân Tiên’
mà làm thơ lục bác, rốt cuộc, chẳng ra đâu, toàn là thơ con cóc, nhưng cũng
vui.
*
Hè năm sau, thầy xong bảy năm trung học, tuy bận bịu với chuyện thi cử
nhưng thầy vẫn dành dạy hai thằng tôi thêm gần một tháng hè, sau đó ba tôi cám
ơn thầy, không cho học tiếp, để thầy lo
mùa thi cho trọn, hai thằng từ giã và chúc thầy thi đậu, ba thầy trò chia tay
mà buồn khôn xiết, từ đó và từ ngày trở lại trường, tôi không còn gặp lại thầy.
Lên tỉnh, anh Đệ Nhất thôi còn học, không còn ở trọ, anh Đệ Tứ ra ở chung với
ai đó cùng quê, hai người đi hết rồi, nhà trọ không còn ai, hỏi ba bằng lòng,
tôi dọn tới ở chung với mấy anh cùng miệt dưới quận và thằng bạn học thêm toán,
tại căn nhà thiếc cuối đường, cơm canh tự liệu, không sao, lớn rồi, Đệ Ngủ kia
mà.
Hè cuối năm Đệ Tứ, tôi đạp xe xuống thăm thầy, chỉ gặp bà Ba, mẹ thầy
cho biết là thi xong có về vài ngày rồi trở xuống dưới Sài Gòn mà không nói khi
nào về lại. Thằng bạn mê làm thơ cũng đã chuyển về dưới trường quận, hai đứa ít
gặp nhau như trước, trừ năm ba ngày nghỉ hè, lần nào hắn ta cũng đem khoe hai
ba tờ báo, Trắng Đen, Tin Sáng, dưới Sài Gòn, mấy bài thơ đăng trên trang thơ
văn gì đó, cười cười nhắc chuyện hai thằng làm thơ con cóc, xem ra mãn nguyện,
từ đó tôi không gặp lại thầy nữa và tôi cũng bắt đầu nhất định sẽ làm thơ và một
ngày nào đó gặp lại hắn, tôi cũng sẽ có bài đăng trên báo không thua gì.
*
Đậu Tú Tài Hai xong, xuống Sài Gòn, hai thằng mơ làm thơ gặp lại nhau
cùng giảng đường Đại Học, ngày còn đi về nhà, xe đò đường dài, chuyến sớm chuyến
muộn không tiện ghé ngã ba cũ nhà thầy, hỏi thì thằng bạn cho biết, có ghé
ngang vài lần, không gặp, thầy rớt Tú Tài Hai, đã vào lính, không biết đóng ở
đâu, ít khi về, bà Ba giờ thui thủi một mình, ra vào ngó ra đường, một lần nữa
tuổi già thêm tuổi buồn. Cô chị gái lớn, con chủ tiệm tạp hóa, tối nghiệp Sư Phạm
Sài Gòn, hiện đang dạy ở trường tiểu học Cẫm Giang, cô em sắp sửa thi Tú Tài Một.
Mấy năm sau, tốt nghiệp ra trường, về quê thăm nhà, trước khi chọn nhiệm
sở, hai thằng một lần nữa ghé nhà thầy, một trưa cuối Hạ, căn nhà vắng tanh quạnh
quẽ, bà Ba già hơn xưa, tóc bạc trắng màu bông bưởi, không còn cái cười của những
ngày học toán với thầy, lần này hai đứa ngồi nói chuyện với bà cả buổi, thầy có
về thăm nhà vài ngày, áo hoa Dù mũ Đỏ, cũng đi ra đi vào, không gặp gỡ ai quen,
nhớ nhau chưa trọn, rồi lại ra đi, mây ngàn bạt gió, bà ở lại vái van ông bà
cho thầy bình yên, đi đến nơi về đến chốn. Bà buồn buồn nói, có đôi lúc ngó qua
căn biệt thự bên kia góc đường, lắc đầu thở dài, thì ra, thầy tôi đã ‘yêu thầm
nhớ trộm’ chị Cúc, cô con gái lớn của chủ tiệm hóa từ mấy năm nay nhưng, giữ
trong lòng, chưa lần nào có dịp nói ra, vì cả thầy và chị Cúc không có bao lần
giáp mặt nhau lâu, ngoài những lần gặp phớt qua, khi thầy từ trên tỉnh về nhà
hay những chiều lang thang bâng quơ ngoài ngã ba đường, khẻ gật đầu chào như
cái chào thường tình, kèm theo nụ cười lịch sự, thế thôi.
Bà Ba biết, thầy cũng không chối, thương cho con và thầy cũng có đủ sáng
suốt biết, thân phận nghèo nàn, khỏi nói đâu xa, cứ đứng nhìn, đem hai cái nhà
so nhau, không nói gì khác hơn, người bên ngoài cuộc thở dài, giàu nghèo khá rõ.
Biết để mà buồn cho số phận, bà không nở khuyên thầy quên đi nhưng chỉ nhắc khéo
ba chữ “nhà mình nghèo”, vậy thôi, thầy ráng sức học, con đường mà thầy hy
vọng sẽ mở cho thầy một cơ may trong tương lai, “công thành danh toại”,
đổi cho kiếp nghèo, để toại nguyện ước mơ, từ đó thầy vẫn đi về với nổi lòng “yêu
thầm nhớ trộm” trong tim mình. Từ giã, chào bà Ba ra về, trời xế trưa, nắng
cũng nắng như từ sáng, hai thằng bịn rịn không nở đi mau, có tiếng cô con gái
nhỏ, em chị Cúc nói gì với mẹ, hai mẹ con cười giòn, nhìn lại trong nhà, bà còn
ngồi trên bộ ván ngó ra, bỗng dưng hai thằng buồn muốn khóc.
*
Hai thằng chia tay, tôi về làm ở Mỹ Tho Định Tường, thằng bạn “thi sĩ dỡm”
xuống tận Cần Thơ Phong Dinh, từ đó chia tay, đường ai nấy lo, phận ai nấy giữ,
cũng là những ngày cuộc chiến nhiều năm qua xem ra căng thẳng và khốc liệt hơn.
Ít gặp nhưng thỉnh thoảng, đôi lần dùng nhờ vào điện thoại chỗ làm, gọi hỏi
thăm nhau đôi điều, ôn ngày xưa hai ba chuyện vậy thôi, ngày mai không ai biết
trước gì cả, cứ chờ cứ ngóng một ngày nào đó, không còn phải ngậm ngùi khi nhìn
người thiếu phụ còn quá trẻ, khăn tang trắng trên đầu theo sau chiếc quan tài
phủ cờ người lính nào đó, mỗi khi xe tang đi ngang đường phố, kéo dài khúc nhạc
chiêu hồn tử sĩ.
Lâu lắm mới nghỉ vài ngày phép, ghé Sài Gòn chơi, nhớ chút kỷ niệm thời
mài ghế giảng đường, trước khi về trên quê thăm nhà, ở tạm nhà một người quen
xa. Buổi chiều, một buổi chiều Sài Gòn, đi xuống đi lên giữa dòng người “ngựa
xe xiêm áo”’có cặp có đôi” một mình, hết đường trên ngỏ dưới, thắm mệt, vào
tiệm kem quen Hương Lan, ở ngã tư, ngó ra rạp Casino ưa ngồi ngày xưa tìm chỗ
ngồi nghỉ chân, quán không đông người lắm, loay hoay chọn bàn, thấy ở góc cạnh
tường bàn trống ngó ra đường, một anh sĩ quan Dù đang ngồi một mình, không ngó
lên, đọc tờ báo gì đó, tôi cũng một mình, lân la tới làm quen, anh ngó lên, tôi
sửng sốt ‘thầy ơi”, cùng lúc thầy cũng buột miệng “em hả”, thật
là thầy tôi rồi, hơn nhiều năm chưa một lần thầy trò gặp lại từ ngày thầy rớt
Tú Tài Hai. Thầy có về thăm nhà ngày hôm qua, thấy mẹ già nhưng vẫn còn mạnh
cũng mừng, không ngờ gặp lại tôi, thầy cười nhìn tôi, còn vài tiếng nữa cũng
đáng cho ba ngày phép rồi, vì đêm nay, máy bay sẽ đưa thầy và đoàn quân ra chiến
trường miền Trung.
Trên nhà, thầy có gặp lại chị Cúc, lần này lâu hơn những lần trước, chắc
giờ là cô giáo người lớn, hỏi qua hỏi lại, chị chuyện trường lớp học trò, thầy
giày sô áo trận, mưa rừng gió núi vậy thôi. Hai người chúc nhau may mắn và hẹn
có dịp khác, nhưng không biết là khi nào, với thầy, dù chưa nói ra nổi lòng “yêu
thầm nhớ trộm” nhưng cũng đủ cho thầy vui, dù vui không được trọn vẹn, buổi
chiều trên chuyến xe đò lớn trở xuống Sài Gòn, chầm chậm đi, chị Cúc đứng trên
bực thềm trưới cửa tiệm tạp hóa, vẫy tay
cười chào theo, suốt đường, trên xe, thầy mĩm cười một mình, nụ cười “lên
men hy vọng”. Ra khỏi tiệm kem, Sài Gòn lên đèn, người vẫn còn dập dìu đường
phố, hai thầy trò băng qua bên kia con hẻm Casino, ăn bữa cơm từ biệt, tôi ghi
địa chỉ quân bưu KBC của thầy cho, nhưng bảo cần lắm thì viết, không thì thôi,
thư từ đời lính thường đi trễ đến muộn vì đầu sông cuối đồng, mai chỗ này kia
chỗ nọ.
Trời sụp tối hẳn, hai thầy trò ngồi xe xích lô máy về lại trại Hoàng Hoa
Thám, để thầy kịp chuyển quân, xe chờ ngoài cổng, tôi xiết chặt tay thầy từ biệt
mà nước mắt rưng rưng, người lính gát mở cửa chào, thầy vẫy tay, tôi nói với
theo, một lần nữa,”thầy cố bảo trọng, chúc thầy mọi điều bình an”, người
lái xe xích lô ngồi chờ dưới ánh đèn vàng vỏ của màn đêm, tôi vẫn cứ nhìn theo,
bóng thầy xa dần rồi khuất mất sau dãy doanh trại màu xanh lá rừng, trở lại xe,
mắt cay xé, người lái xe chắc cũng hiểu chuyện, ông lặng thinh, nổ máy, quay đầu
xe, ngồi nhìn vào bên trong trại, ở đó
chỉ là một màu âm u, bất giác thở dài, tôi nói cho mình nghe “không biết chừng
nào mới gặp lại thầy ơi”.
Gần tết năm đó, tôi và thằng bạn “thi sĩ dỡm” gặp lại tại kỳ họp
liên tỉnh, chẳng có gì để hỏi chuyện bây giờ, vẫn độc thân , đời công chức vẫn
là đời công chức, thế thôi, gặp lại thấy còn mạnh khỏe, không buồn rầu là mừng
rồi, hắn cho biết có về quê thăm nhà vài tháng trước, chiếc xe Peugeot 403 đưa
đò cũng còn chạy lên chạy xuống được, bà Ba, mẹ của thầy mình, đã không còn ở
đó, căn nhà bỏ trống, bán chắc chẳng ai mua, bà xuống tóc, vào ở chùa Bảo Sơn Tự
dưới Gò Chùa, người trong chợ xã không ai biết bà ra sao, không màng nhắc tới,
mà bà có gì đâu để nhắc , người quen nghèo như bà chỉ cầu mong bà được mạnh
lành ở những ngày tháng cuối đời.
*
Một ngày giữa hè năm sau, thầy tử trận tại chiến trường An Lộc, cũng là
ngày đám cưới chị Cúc được tổ chức rần rộ, ở chợ xã, hoa lá một màu đỏ thắm
trên cái cổng gắn bảng“Lễ Thành Hôn” dựng ngay lối vào, tại căn biệt thự
đầu góc đường, chị thành hôn với một anh kỹ sư tốt nghiệp Phú Thọ, học trên chị
một lớp cùng trường, con nhà khá giả ở chợ quận, xe cộ khách khứa rộn rịp một khúc
đường cả ngày trời. Ngày hôm sau, rước dâu, buổi sáng trời trong nắng đẹp, chị
theo về nhà chồng, đoàn xe mười mấy chiếc rộn rã trên đường xuống quận, cũng
cùng lúc đó, vừa hơn nửa đường, ngang qua trụ sở xã Phước Trạch, lá cờ tung bay
theo gió thường ngày, sáng nay hình như bất chợt rũ xuống, họ chậm lại, nhường
đường cho chiếc xe nhà binh, còn bụi đỏ, chở chiếc quan tài phủ cờ vàng, đang rẽ
vào ngã ba hướng ra chùa, toán lính mặc đồ Dù, bâng quơ nhìn, mấy tràng hoa cưới
đỏ thản nhiên, lả lơi đong đưa trên mui đoàn xe rước dâu theo chiều gió sớm.
Tin thầy nằm xuống, được báo cho người trong ban trị sự của chùa, rồi
theo lời họ, thay vì chôn ở nghĩa trang quân đội, quân đội chở thầy về với bà,
tuổi già bóng xế, không còn sức mà khóc, nước mắt khóc cho cả cuộc đời nghèo
khó đã cạn, người phụ đám tang dìu bà theo sau, ban trị sự đem chôn thầy tại
cái nghĩa địa nhỏ, trong khu đất ngoài
sau chùa, nơi cũng đã có mấy nấm mồ của ai đó. Hai thằng tôi được tin quá trễ,
tạ lỗi vì không về kịp tiễn thầy đi, lòng buồn da diết. Bức hình thầy nửa người
đặt trên kệ thờ bên hông chánh điện, từ đó người ta nghe tiếng kinh, tiếng mõ cầu
siêu sáng chiều, kéo dài và dài nảo nuột hơn trước.
Cuối cùng, thầy đã đi xa, xa thật xa, mang theo cái cười “lên men hy
vọng” ngày có cái vẫy tay từ biệt, của người con gái thầy “yêu thầm nhớ
trộm” trên chuyến xe về Sài Gòn hôm đó, thầy không hay tin người đó đã theo
chồng ngay ngày người ta đưa thầy về lại
quê nhà, nếu không, chắc thầy sẽ đau lòng biết dường nào, không bình thản nhắm
mắt, không yên lòng yên nghỉ, khi phải mang theo nổi buồn thiên thu sầu xuống tận
đáy mồ.
Thuyên Huy
Viết cho một người họ
Phan, không biết còn hay mất – xứ xa ngày nhập nhằng cuối Đông đầu Hạ 2021
No comments:
Post a Comment