Để Tang Cho Sách
“....Sau tháng tư năm ấy, cái tháng tư mà dù nằm dưới
mộ sâu ông vẫn còn đau đớn, những cuốn sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm
đã bị bức tử một cách oan nghiệt”.
Bà tôi thường than
thở, hết một nửa cơ nghiệp của nhà này đã tan tành theo sách. Một nửa cơ nghiệp
nói cho to, cho xứng với nỗi đau tiếc của của bà, chứ thực ra chỉ vài trăm cuốn
sách của ông tôi thôi. Có điều, đó không phải là những quyển sách bèo nhèo giấy
rơm thô kệch, đang tràn ngập trong các hiệu sách, trong trường học và trong thư
viện.
Chưa nói tới nội
dung, chỉ mới lật qua vài trang mờ nhoẹt vàng đục với những con chữ ốm o đói
khát như những người bị sốt rét rừng là đã thấy chán lắm rồi.
Sách của ông tôi,
bạn chỉ ngắm không thôi cũng đã thấy thích. Những cuốn tự điển của Pháp, của
Việt, thư pháp của Trung Hoa, những sách thuốc, sách khoa học, những bộ tiểu
thuyết của các nhà văn danh tiếng, những sách học làm người, những sách
triết…đứng sát bên nhau phơi cái gáy mạ vàng như cả một đội ngự lâm quân thông
thái và oai vệ. Trang nghiêm nhưng không lạnh lẽo, bọn họ là thầy là bạn của
ông tôi. Và vì vậy, bạn cũng như tôi chỉ được phép đứng nhìn mà thôi.
Ông tôi là một
người mê sách (cũng lại là cách nói vừa tấm tức vừa giận hờn của bà) mê hơn cả
vợ con. Nếu bảo rằng “thư trung hữu nữ nhan như ngọc”, thì ông tôi tuy đã già
nhưng lại có đến những mấy trăm người đẹp như các vua chúa ngày xưa, nên bà tôi
“ghen” cũng phải.
Ông mê sách như
người mê đồ cổ. Nghe ở đâu có sách quý là ông tìm tới dù có phải tốn kém tàu xe
và phải bỏ ra cả một mòn tiền lớn để “rước” người có nhan như ngọc đó về, ông
cũng dám chơi một phen cho thõa chí. Như cuốn Tự vị của Paulus Của, nghe đâu
như là ấn bản đầu tiên của một ông cụ nào đó bắc bực làm cao đến tận giời, ông
tôi đã phải lặn lội vào tận xứ Thủ Dầu Một xa lắc xa lơ để mua cho bằng được.
Công cuộc mua quyển sách đó, chẳng những khiến ông mất đến mấy chỉ vàng, mà còn
ốm một trận thừa sống thiếu chết.
Cuốn sách cũ đến
nỗi như đã ngàn năm tuổi. Còn hơn một người chơi đồ cổ, ông tôi lại phải tốn
thêm một món tiền và nhất là tốn rất nhiều thì giờ để nài nĩ và kiên nhẫn ngồi
chờ anh thợ đóng sách đóng lại giùm. Lúc này quyển sách đối với ông như một con
bệnh thập tử nhất sinh và anh thợ đóng sách cứ như một bác sĩ. Khi anh thợ tháo
bung sách ra, ông đau nhói như thể gan ruột của mình cũng bị lôi ra như thế.
Ông hồi hộp theo dõi từng mũi chỉ khâu, nín thở xem anh ta cắt xén, làm bìa.
Cho đến khi sách được làm mới một cách khỏe mạnh, xinh đẹp, ông ôm quyển sách
trước ngực như một người mẹ ôm đứa con bé bỏng vừa được bác sĩ cứu sống. Ông
hết lời cảm ơn anh ta, đưa cho anh một tờ tiền lớn và hào phóng không nhận tiền
thối lại. Đem quyển sách về nhà, ông lại mất cả buổi ngồi ngắm đến nỗi quên cả
bữa cơm khiến bà tôi phải giục.
Đó là với những
sách cũ quý hiếm. Còn sách mới, ông lại “phá của” một cách không giống ai. Sách
nào ông cũng phải mua đến những hai quyển, một để đọc và cho mượn, một để
nguyên không đụng tới. Những quyển sách để nguyên ấy nằm im trong tủ kính, mỗi
lần mở ra là thơm nồng mùi giấy mới và mực in. Đối với ông, đó là một mùi thơm
huyền hoặc đầy quyến rủ và mê đắm như những người nghiện nghe thấy mùi thuốc
phiện. Chẳng những chỉ mùi thơm trinh nguyên không thôi, quyển sách vẫn còn
trinh trắng khi hãy còn những lề chưa rọc.
Học cách người
xưa, không để của cải cho con cháu mà để sách, nên giá như có phải vì thế mà
tiêu hết cả cơ nghiệp, ông tôi cũng không tiếc. Chỉ có một điều khiến ông băn
khoăn, ấy là trong đám con cháu thực sự chưa có một người nào đủ để ông tin
tưởng. Gạt hết những đứa chỉ biết có nhà to xe đẹp, những đứa chỉ biết vung
tiền trong các cuộc ăn chơi, suốt một đời chưa đụng tới một quyển sách nào,
những đứa mà ông bảo là trong đầu toàn chứa những thứ vớ vẩn nếu không muốn nói
là hôi thối ấy, còn lại chỉ vài đứa có để mắt tới sách, nhưng với một thái độ
hờ hững, một đôi khi thô bỉ xúc phạm đến sách.
Ông ghét nhứt ai
đó đọc sách mà miệng cứ nhai nhồm nhoàm, vừa đọc vừa tán chuyện, bạ chỗ nào
cũng đọc ngay cả trong nhà cầu, đang đọc mà có ai ới lên một tiếng là ném ngay
cái xạch sau khi đã tàn nhẫn xếp lại một góc để làm dấu, rồi bỏ đi mà không cần
biêt tới quyển sách có thể bị ướt, bị bẩn hay bị cháy. Ông cũng không chịu được
cái cách lật sách thô bạo bằng cả bàn tay úp lên trang giấy hay thấm nước bọt
trên đầu ngón tay. Đó là cách cư xử của kẻ phàm phu tục tử, của phường giá áo
túi cơm. Lật sách mà như thế có khác gì sàm sỡ nếu không muốn nói là cưỡng bức.
Phải lật như những nhà sư nâng nhẹ một trang kinh hay là như khẽ lay một người
đẹp đang ngủ.
Đối với ông, đọc
sách là để được tiếp cận với những tâm hồn ngoại hạng, cho nên trước hết phải
tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, phải “dọn mình”như con chiên quỳ trước Chúa,
như nhà sư đảnh lễ trước bàn thờ Phật. Chẳng những sạch ở phần xác mà còn sạch
cả phần hồn. Nghĩa là không để những giận hờn phiền muộn hay những ý nghĩ ô
trọc dính bám cho dù chỉ một tí trong đầu. Chỉ đọc trong lúc thanh tịnh giữa
khuya hay khi gần sáng tinh mơ. Đọc với hương trầm cộng với mùi hương ngai ngái
của giấy mực, hương của sương đêm loáng thoáng hay hương của nước mưa mát dịu.
Đọc là mở hồn ra để hơi thở của sách ùa vào căng buồm lên cho con thuyền bé nhỏ
của mình được dọc ngang trên biển học mông mênh.
Đương nhiên là ông
tôi khó tính nhất nhà. Cái viện sách bé nhỏ của ông là một nơi khả kính, thâm
nghiêm như một ngôi đền không một ai ngay cả bà tôi dám động tới. Bảy mươi năm
sống trên đời của ông thì hết một nửa là ở trong cái gian phòng đựng đầy sách
với mùi hương và sắc màu của những tâm hồn kỳ vĩ. Dạo ấy, mặc dù được cưng
chiều và rất có triển vọng được ông tin tưởng, tôi cũng chưa được một lần đọc
một quyển sách nào trong tủ sách ấy. Ông bảo tôi chưa đủ tuổi và chưa học được
cách nâng niu gìn giữ theo cách gần như tôn thờ, thì đọc chẳng ích lợi gì mà
còn “giết” sách. Theo ông, đọc vì tò mò, đọc như “luà cơm”, đọc như ngốn ngấu
thì cả đầu óc mình chỉ là một bãi hoang chứa đầy những xác chết của sách bị vất
ngổn ngang mà thôi. Đọc là phải ngấm từng chữ từng câu, phải để nó bén rễ trong
đầu mới có thể thành cây cho trái ngọt.
Năm tháng qua đi,
ông tôi âm thầm làm một cuộc chuyển giao lặng lẽ. Tiền bạc trong nhà cứ cạn dần
nhưng sách của ông lại đầy lên, phải đóng thêm tủ kê thêm kệ. Cô chú tôi biết ý
ông, nên mừng tuổi không bằng trà ngon rượu bổ, mà bằng những phong bì ít nhất
cũng đủ cho ông mua được một hai quyển sách. Những lúc ấy ông vui như một đứa
trẻ lên 5 được nhận tiền lì xì. Rồi ông đi ra tiệm sách, khệ nệ ôm về những
chồng sách mà ông ao ước nhưng chưa đủ tiền mua. Ông ve vuốt từng cái bìa, ngắm
nghía từng con chữ, đê mê những sách của Lá Bối, An Tiêm, mơ màng với những tác
giả Saint Exsupéry, Bùi Giáng…Giá như ông sống đến một trăm tuổi và giá như ông
còn có đủ tiền thì cái viện sách của ông sẽ kín đặc những sách. Ông sẽ ngồi
giữa những bức tường dày cộm thơm tho đó như một anh lính già đang tử thủ trong
một cái lô cốt văn hóa.
Sau
tháng tư năm ấy, cái tháng tư mà dù nằm dưới mộ sâu ông vẫn còn đau đớn, những
cuốn sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm đã bị bức tử một cách oan nghiệt.
Khi người ta đội
lên đầu những quyển sách của ông, có những quyển già như một ông tiên đầu bạc,
có những quyển xinh tươi như những thiếu nữ trẻ trung, những chiếc mũ có tên là
“nọc độc”, là “đồi trụy”, là “phản động” thì hơn ai hết ông hiểu đó là một lời
tuyên án tử hình.
Ông suy nghĩ lung
lắm, không phải để tìm cách chôn dấu hay tẩu tán. Mà suy nghĩ làm sao để chọn
cho sách một cái chết xứng đáng với lòng tin yêu và kính trọng của ông.
Một đêm thức
trắng.
Rồi hai đêm thức
trắng.
Ngày thường ông
bình tĩnh là thế nhưng lúc này, ông bối rối run rẩy. Có lúc mặt ông đỏ bừng và
mắt ông lóe lên những tia lửa căm hờn. Cả nhà chẳng ai dám hỏi nói gì với ông.
Giống như một con sư tử già bị săn đuổi cùng đường, lâu lâu ông lại gầm lên một
cách tuyệt vọng.
Cuối cùng ông đã
chọn cho mấy trăm cuốn sách một cái chết dũng cảm. Đó là chính ông tự mình đốt
sách.
Một quyết định
cháy lòng.
Tôi cũng được dự
phần trong cuộc hỏa thiêu đau đớn ấy, bằng cách giúp ông bê hết sách ra sân. Dù
đem đi đốt nhưng ông không cho phép tôi làm rơi rớt xuống đất, không được nặng
tay, mà phải sẽ lén nhẹ êm như đang bồng một em bé say ngủ. Phải rồi, những
cuốn sách của ông đang say ngủ. Đánh thức chúng dậy, ông sẽ không chịu nổi
những tiếng khóc mà chỉ riêng ông mới nghe được mà thôi.
Sách được xây
thành một cái tháp quanh những thanh củi chẻ nhỏ. Ông không muốn đốt chúng bằng
xăng hay dầu. Ông lại càng không muốn xé sách ra từng mảnh nhỏ để đốt. Xé ra là
làm chúng đau. Và làm cho chúng đau trước khi chết là tội ác. Một người coi
sách là sinh vật sống, để cả đời nâng niu bồng ẳm, vậy mà phải giết do chính
bàn tay của mình, bạn phải biết là ông tôi đã đau khổ đến nhường nào.
Đó là một đêm
tháng năm lặng gió. Cây cối im ngủ. Những ngôi sao như tan đi trong khói trời
mờ đục. Ông tôi cử hành lễ đốt sách cũng bi tráng và lẫm liệt như Huấn Cao cho
chữ trong ngục. Ông mặc toàn đồ trắng, cắm một cây đuốc giữa trời, khấn khứa rì
rầm rồi lạy bốn hướng mỗi nơi một lạy. Xong ông lấy cây đuốc đang cháy đặt vào
giữa tháp. Dứt khoát và quyết liệt như cái cách các võ sĩ đạo đâm kiếm vào
bụng.
Lửa bắt rất nhanh,
chỉ trong phút chốc đã bắn vọt lên đầu ngọn tháp.
Đã nghe mùi mực và
mùi giấy.
Đã nghe tiếng vặn
mình của các bìa sách.
Đã nghe những âm
thanh líu ríu như run như rẩy của những trang sách méo mó cong vênh.
Lửa trào ra như từ
miệng hỏa diệm sơn.
Lửa ôm choàng lấy
sách, hôn dữ dội bằng đôi môi bỏng cháy.
Sau cùng, cái tháp
bằng sách đỏ rực như một trái tim để lộn ngược.
Ông tôi ngồi xếp
bằng, cố giữ nét mặt trầm tĩnh một cách cao cả. Không một giọt nước mắt cho dù
là vì khói cay xè. Ông như thượng tọa Thích Quảng Đức đang ngồi kiết già với
ngọn lửa bao quanh. Có thể nói, chính ông cũng đang tự thiêu. Bất giác tôi cảm
thấy muốn khóc vì lo sợ. Đến một lúc nào đó, biết đâu ông đứng bật dậy bước
thẳng vào ngọn lửa.
Ông chết theo
sách.
Đó là một cái chết
đẹp, xứng đáng với một người yêu sách như ông.
Nhưng ông chưa
muốn chết vì ông còn phải để tang cho sách như một đứa con chí hiếu. Ngay lúc
lửa tàn, ông quỳ xuống lạy ba lạy. Rồi ông kiên nhẫn ngồi đợi cho tất cả biến
thành tro nguội. Ông bảo tôi hốt tro vào bao, cất vào tủ rồi mới chịu đi vào
nhà. Gần như suốt đêm ông không ngủ. Bà tôi than thở là nghe tiếng dép của ông
kéo lê lệt sệt mãi tới tận sáng.
Hôm sau, ông bảo
tôi thuê thợ đóng nhiều chiếc hộp để đựng tro. Mỗi chiếc để một ngăn tủ. Ông
khóa lại và dặn không được dùng vào việc gì khác ngoài việc gìn giữ những chiếc
quách ấy. Hơn 30 năm sau, cái tủ đựng đầy những hộp tro vẫn đứng im đó như một
nhà mồ. Ngày giỗ ông, chúng tôi cũng đem một bát nhang đến thắp trên đầu tủ. Có
cảm giác như hồn ông và hồn sách cùng lảng đảng bay về.
Vẫn chưa hết
chuyện về ông tôi đâu. Một tháng trước ngày mất ông muốn tôi làm cho ông những
tấm mộ bia bằng giấy. Ông đưa tôi một danh sách dài những quyển sách bị đốt, cứ
mỗi tấm bia đề tên một quyển sách. Hơn mấy trăm cái bia như thế, phải mất cả
tuần mới làm xong. Những mộ bia không có ngày sinh nhưng có chung một ngày tử.
Chúng được xếp lên kệ thay cho hàng trăm cuốn sách đã chết tập thể.
Cả viện sách của
ông giờ đây biến thành một nghĩa trang.
Ông trịnh trọng
chít khăn trắng, lên nhang đèn rồi cung kính khấn vái như trước bàn thờ tổ
tiên. Trong những lời rì rầm, nhiều lúc bỗng vang lên như tiếng khóc, ta là
người có tội, có tội. Theo như tôi hiểu đó là cái tội không bảo vệ được sách,
tội với các tác giả, tội với những thợ sắp chữ ở nhà in và xa hơn nữa là có tội
với giấy và mực.
Ông biết ơn họ bao
nhiêu thì bây giờ ông ray rứt vì mình có tội bấy nhiêu.
Từ đó ông ăn ít
ngủ ít. Ông đem từng tấm bia đặt lên bàn, lặng lẽ ngồi ngắm hằng giờ như đang
đọc sách. Mỗi tấm bia gợi nhớ đến màu bìa, co chữ, tranh vẽ và cả nội dung mà
chỉ có ông mới thấy được, hiểu được. Ông như sống lại những năm dài trước đó
với những niềm vui kín đáo khi tìm được sách quý, hay mua được những sách hay.
Những lần như thế, ông tự thưởng cho mình khi thì một bình trà, lúc một chung
rượu hay tách cà phê và những điếu thuốc thơm thay cho hương trầm.
Rồi đến một lúc
ông không ăn mà cũng chẳng ngủ. Người ông khô kiệt tái xám. Ba tôi và các chú
đi cải tạo chưa về đương nhiên là khoét sâu vào hồn ông những nỗi buồn lo khôn
nguôi. Nhưng dù vậy, tận cùng của đêm thì cũng phải sáng. Ông có thể đợi đến
mười năm hay hai mươi năm. Chỉ có những quyển sách bị đốt là không đợi được.
Ông nói với bà, biết trước như vầy tôi đã để hết tiền cho bà chứ mua sách làm chi.
Bà tôi cay đắng, ai mà có con mắt sau lưng.
Buổi chiều cuối
cùng ngồi bóp chân cho ông, tôi nghe ông hỏi, cháu thấy ông thế nào? Tôi nói,
dạ, ông nên ăn chút cháo, trông ông gầy lắm. Không phải, ông nói, da ông thế
nào, đã ngã thành màu đất chưa? Không biết da màu đất là màu gì, tôi nói đại,
chưa ông à. Ngã màu đất là sắp chết đấy cháu, ông nói. Ông đã có ý để lại sách
cho cháu, nhưng ta tính làm sao được bằng trời tính. Cháu nhớ giữ giùm ông cái
tủ và mấy cái kệ.
Nghe ông nói, tôi
thấy da ông quả thật rất giống với màu đất bạc phếch, lạnh lẽo ở nghĩa địa. Da
ông là da của một người đã chết từ lâu nhưng chưa chôn. Hay là ông đã chết từ
cái đêm hôm ấy. Hồn ông đã cùng với hồn sách nương theo khói bay lên tận trời
cao. Cái miền đất ồn ào đầy ô trọc và thù hận này biết đến bao giờ mới lại có
được những con người, những quyển sách biết yêu quý tương kính lẫn nhau như
thế. Chính lúc này tôi mới thấy thấm thía nỗi đau mất sách của ông.
Tôi vừa buông tay
ra thì ông ngừng thở. Ông chết nhẹ nhàng như gấp lại một cuốn sách. Tính ra,
ông đã để tang cho sách đúng một trăm ngày.
Khuất Đẩu
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment