Trung Tá Lê Văn Ngôn trấn
thủ Tống Lê Chân như thế nào?
Viết để ngợi ca và vinh danh 275 chiến sĩ Mũ Nâu của Tiểu Đoàn 92 Biệt
Động Quân và người bạn cùng khóa, cố Trung Tá Lê Văn Ngôn. Xin nguyện cầu hương
linh của anh ngàn thu yên nghỉ! Anh chính là một biểu tượng của Tống Lê Chân,
là niềm hãnh diện của cựu sinh viên sĩ quan khóa 21 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt
Nam-Đà Lạt.
Nhìn lại toàn cuộc chiến mùa Hè của năm 1972, từ Dakto-Tân Cảnh xuống
tới An Lộc-Bình Long rồi ra tận Quảng Trị kiêu hùng, Trung Tá Lê Văn Ngôn đã
nổi lên như một người hùng. Anh sinh năm 1941 tại thị xã Vĩnh Long, trong một
gia đình nho giáo, cha và người anh cả của Ngôn đều chọn nghề dạy học và rất
được sự kính trọng của phụ huynh lẫn học sinh trong vùng.
Như bao thanh niên khác cùng thế hệ, Ngôn đành phải xếp bút nghiên, giã
từ giảng đường đại học, nơi mà tuổi trẻ luôn miệt mài đầu tư cho tương lai tươi
sáng của mình. Vì anh ý thức được bổn phận và trách nhiệm của người trai trong
thời quốc biến, cho nên, cuối năm 1964, anh tình nguyện gia nhập khóa 21 Trường
Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, như là một sự dấn thân để phục vụ lúc tổ quốc lúc đang
cần.
Vào thời điểm ấy, Cộng Sản đã có những toan tính lọc lừa, ngang tàng xua
quân vào để mở rộng cuộc chiến xâm lược miền Nam. Những trận đánh lớn đã thường
xuyên xảy ra trên khắp bốn vùng chiến thuật và đó chính là nguyên nhân dẫn đến
sự tham chiến ồ ạt của Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam vào năm 1965.
Lê Văn Ngôn tốt nghiệp ngày 26 Tháng Mười Một, 1966, với cấp bậc thiếu
úy hiện dịch và anh chọn Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt để phục vụ. Do nhu cầu
phát triển của Quân Lực, vài năm sau đó, binh chủng này bị giải tán và được sát
nhập vào Biệt Động Quân. Ngôn được bổ nhiệm giữ chức vụ chỉ huy trưởng trại Lực
Lượng Đặc Biệt Biên Phòng Tống Lê Chân vào năm 1972, rồi đơn vị này được cải
danh thành Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân và Ngôn trở thành vị tiểu đoàn trưởng.
Nói về căn cứ Tống Lê Chân, nơi này là vùng đất của hai xã Minh Đức và
Minh Tâm thuộc tỉnh Bình Long, là một trại biên phòng, nằm cách biên giới
Việt-Miên 13 km về phía Nam và cách thị xã An Lộc 15 km về hướng Đông Bắc,
nghĩa là hết tầm yểm trợ của đại bác 155 ly. Nguyên thủy, cứ điểm ấy mang một
tên địa phương là Tonlé Tchombé, sau đó, chỉ huy trưởng đầu tiên của trại này
là Thiếu Tá Đặng Hưng Long đã đổi thành Tống Lê Chân. Trại được bao quanh với
tám lớp hàng rào kẽm gai, cộng thêm với hệ thống mìn bẫy dầy đặc, tự nó đã rất
vững vàng trong việc phòng thủ, cũng đã góp phần đẩy lui nhiều cuộc tấn công
điên cuồng của giặc Cộng. Ngự trị trên một ngọn đồi yên ngựa, cao khoảng 50
mét, nhìn xuống hai dòng suối nhỏ là Takon và Neron và có một phi trường nằm
trên ngọn đồi thấp của dãy yên ngựa này mà vận tải cơ C.123 có thể đáp được.
Tống Lê Chân bị tấn công kể từ ngày 10 Tháng Năm, 1972. Vào thời điểm
khốc liệt ấy, những dàn phòng không dày đặc của địch thực sự đã kiểm soát được
vòm trời của căn cứ, gây không ít trở ngại cho Không Quân VNCH khi phải thực
hiện các phi vụ tiếp tế và yểm trợ.
Giống như tình trạng tại An Lộc, trong những ngày đầu bị vây hãm, mọi
tiếp tế lương thực và đạn dược đều được thực hiện bằng cách thả dù. Nhưng hầu
như chỉ một nửa rơi vào vòng phòng thủ của ta và phần còn lại thì rớt xuống
vùng của địch. Thế mà Tống Lê Chân vẫn đứng lừng lững, dũng cảm và hiên ngang
với nhiệm vụ chận đứng mọi sự chuyển quân của Việt Cộng từ Cambodia xuống phía
Nam, cứ điểm này chính là một vị trí chiến lược, trở thành một tiền đồn trọng
yếu trong việc phòng thủ Sài Gòn.
Tống Lê Chân được lực lượng Hoa Kỳ thành lập, họ xây dựng một hệ thống
giao thông hào chằng chịt, rất thích ứng với chiến thuật phòng thủ. Từ hệ thống
có sẵn này, Ngôn ra lệnh cho binh sĩ đào ra những ngách nhỏ, kích thước vừa đủ
trú ẩn cho mỗi cá nhân, vừa dùng để quan sát địch, vừa tránh pháo, lại vừa
chiến đấu rất hữu hiệu.
Thật vậy, Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân và Ngôn đã cùng chung nhịp thở với
Tống Lê Chân trong 510 ngày bị vây hãm, họ phải chiến đấu trong những điều kiện
vô cùng khó khăn. Họ phải tiết kiệm từng viên đạn và thậm chí ngay cả từng hớp
nước uống! Với hơn 20 lần bị tấn công, bảy lần bị đánh đặc công, 233 lần với
khoảng hơn 14,500 đạn pháo đủ loại đã dội vào căn cứ. Tống Lê Chân hiển nhiên
đã trở thành một trận chiến dai dẳng nhất.
Trong suốt thời gian đó, Việt Cộng đã rót vô số bom đạn đủ loại, nướng
không biết bao nhiêu con thiêu thân cuồng tín vào mặt trận này. Đây là một bãi
chiến trường mà ban ngày cũng như ban đêm, đều bị choáng ngợp do mùi nồng nặc
và khét lẹt của thuốc súng. Nhưng bọn chúng cũng thất bại trước toan tính san
bằng cứ điểm và đã không đè bẹp được tinh thần chiến đấu kiên cường của những
dũng sĩ Mũ Nâu. Do đó, song song với việc tấn công hỏa lực, hằng ngày chúng đã
phát động chiến dịch chiêu dụ bằng cách dùng loa kêu gọi rã ngủ hay đầu hàng.
Hẳn nhiên, đã có phần tác động đến tinh thần chiến đấu của binh sĩ và gây ra
không ít khó khăn cho sự chỉ huy của Ngôn. Và & “Ngôn cũng vô hiệu hóa
chiến dịch ấy bằng nghệ thuật chỉ huy và bằng sự can đảm của chính bản thân
mình.”
Vài hàng dưới đây, tôi muốn đưa lên vài trận đánh đã diễn ra qua nhiều cuộc
chiến khác nhau để chúng ta dễ dàng làm một sự so sánh và từ đó chúng ta có thể
hãnh diện mà vinh danh sức chịu đựng, tinh thần chiến đấu kiên cường của những
người lính trận miền Nam nói chung và của Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân nói
riêng.
Hồi thời Đệ Nhị Thế Chiến, Quân Đức Quốc Xã rất hùng mạnh lúc bấy giờ,
đã tấn công thành phố Stalingrad kể từ ngày 17 Tháng Bảy, 1942, nhưng đến ngày
2 Tháng Hai, 1943, phải rút lui trong thảm bại. Tính ra thì sự chịu đựng của
binh lính Nga cũng chưa đến sáu tháng.
Cũng vào thời kỳ này, quân đội Nhật tấn công cứ điểm Bataan ở Phi Luật
Tân do lực lượng Hoa Kỳ và Phi Luật Tân trấn giữ vào Tháng Mười Hai, 1941, và
đến ngày 24 Tháng Bảy, 1942, Tướng Douglas MacArthur phải ra lệnh rút lui.
Quân lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung Âu Châu trấn giữ Tobruk tại North
Africa, đương đầu với cuộc bao vây của liên quân Đức-Ý, do Tướng Erwin Rommel
chỉ huy. Trong trận này, quân đội Anh cũng chỉ cầm cự được từ ngày 11 Tháng Tư,
1941, đến ngày 27 Tháng Mười Một, 1941, rồi bị thất thủ, nghĩa là chỉ khoảng
240 ngày.
Còn tại Việt Nam, quân Cộng Sản tấn công và bao vây quân đội Pháp tại
Điện Biên Phủ vào ngày 13 Tháng Ba, 1954, cho đến ngày 7 Tháng Năm, 1954, thì
Pháp thua trận, có nghĩa là chỉ giữ được cứ điểm này trong vòng 57 ngày.
Cận kề bên Tống Lê Chân trong mùa đỏ lửa,với ý đồ muốn biến An Lộc thành
bình địa, Cộng quân cũng chỉ có khả năng bao vây thị xã này được 110 ngày, để
sau cùng phải gánh chịu một sự tổn thất rất nặng nề, vì rằng cả ba sư đoàn, đó
là Sư Đoàn 5, 7 và 9 của địch đều bị tổn thất rất nặng và phải rút qua bên kia
biên giới Việt-Miên.
Chúng ta rất hãnh diện về tinh thần hào hùng của các chiến hữu mũ nâu,
Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân đã anh dũng chiến đấu trong những điều kiện vô cùng
nghiệt ngã và đơn độc. Thật vậy, những chiến sĩ này và Lê Văn Ngôn đã lập nên
một kỳ công về lòng can đảm và sức đựng! Ngôn, vị trung tá trẻ (29 tuổi) của
QLVNCH, dường như đã cột chặt tên anh và rực sáng lên cùng với địa danh này.
Trong nỗi gian nguy được tính theo từng giây phút, trong cận kề cái chết, vị
chỉ huy trẻ ấy đã mưu lược, dũng cảm và âm thầm lèo lái đơn vị, luôn luôn sát
cánh với thuộc cấp để giữ vững tinh thần, giữ lửa chiến đấu cho nhau, cùng nhau
ghì chặt tay súng trước một chiến trường vô cùng khốc liệt!
Đúng vậy, một cuộc chiến đấu thật oanh liệt của các chiến sĩ mũ nâu,
trong một hoàn cảnh bất cân xứng về tương quan lực lượng đối đầu giữa hai bên!
Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân với 275 người đã cùng nhau vượt lên trên giới hạn
tột cùng của sự gian nguy bằng chính tinh thần trách nhiệm, danh dự và ý chí
chiến đấu của mỗi người lính VNCH.
Lê Văn Ngôn và Tống Lê Chân trở thành một biểu tượng, đã hòa nhập với
nhau như bóng với hình, tạo nên một thành tích lẫy lừng, tô đậm thêm trang sử,
mà vốn dĩ đã quá lẫy lừng của binh chủng Biệt Động Quân nói riêng về lòng can
đảm, sức chịu đựng và tinh thần kỷ luật trong chiến đấu.
Được biết, sau khi Trung Tướng Phạm Quốc Thuần về thay thế Trung Tướng
Nguyễn Văn Minh ngày 29 Tháng Mười, 1973, vị tân Tư Lệnh Quân III đã đệ trình
lên Bộ Tổng Tham Mưu một kế hoạch gồm hai giải pháp cho trại Tống Lê Chân:
-Nếu tiếp tục duy trì căn cứ trọng yếu này thì phải khai thông một con
đường từ thị xã An Lộc đến Tống Lê Chân để đưa một đơn vị khác vào thay cho
Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân.
-Hoặc là bỏ cứ điểm đó và Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân âm thầm rút khỏi
căn cứ, rồi tìm cách bắt tay với các đơn vị bạn.
Vào khoảng đầu năm 1974, Bộ Tổng Tham Mưu không còn bất cứ một lực lượng
tổng trừ bị nào nằm tại Thủ Đô để thực hiện kế hoạch thứ nhất, cho nên Tướng
Thuần đã cho phép Trung Tá Ngôn tùy nghi quyết định.
Với một khoảng thời gian quá dài mà đêm ngày luôn trực diện với địch,
hẳn đã vượt ra ngoài sức chịu đựng của người lính. Cuối cùng, Ngôn cũng đành
phải ngậm ngùi để lại Tống Lê Chân phía sau lưng và toàn bộ đơn vị rút khỏi căn
cứ vào đêm 11 Tháng Tư, 1974. Ngôn đã đưa Tiểu Đoàn về đến thị xã An Lộc vào
ngày 16 Tháng Tư với chỉ còn vỏn vẹn 196 chiến binh, đặc biệt là có đến hai phi
công chính và hai phi công phụ trong số này.
Tất cả các tử sĩ đều được chôn cất ngay tại cột cờ chính của căn cứ.
Cũng ghi nhận thêm là đã có một chiếc Chinook, hai chiếc trực thăng UH1, một
chiếc khu trục và một chiếc quan sát L.19 bị bắn rớt và phải nằm lại tại chiến
trường này.
Một thời gian sau đó, Ngôn được điều động theo học Khóa 2/74 Bộ Binh cao
cấp tại Long Thành. Tốt nghiệp, Ngôn được thuyên chuyển về Sư Đoàn 5 Bộ Binh.
Vào một buổi trưa nắng gắt của Tháng Ba, 1975, khi Trung Đoàn 8 thay thế
nhiệm vụ, Tiểu Đoàn của tôi rời vùng hành quân ở phía Bắc Bầu Bàng, nằm giữa
Lai Khê và Bến Cát.
Trên đường trở về hậu cứ, tôi phải di chuyển qua căn cứ tiền phương của
Trung Đoàn 8, nơi đây là Bộ Chỉ Huy nhẹ của Ngôn. Ghé vào đó để thăm một người
bạn mà kể từ khi rời trường Mẹ (Trường Võ Bị Đà Lạt), đây chính là lần hôị ngộ
đầu tiên với Ngôn.
Ngôn đứng đón tôi ở ngoài hầm chỉ huy, Thiếu Tá Đổng Duy Hùng, tiểu đoàn
trưởng Tiểu Đoàn 3/9, phải đứng nghiêm chỉnh chào Trung Tá Lê Văn Ngôn, trung
đoàn phó Trung Đoàn 8/Sư Đoàn 5, theo đúng quân kỷ. Sau đó, cả hai chúng tôi
nhanh chóng quay về với tình bằng hữu, trong vòng 30 phút cùng nhau hàn huyên,
ngôn ngữ trao đổi chỉ là “mày tao” rất thân thiết, rất tự nhiên của những người
cùng một khóa tại Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Chúng tôi ôn lại những kỷ
niệm của một thời thật đẹp khi còn là Sinh Viên Sĩ Quan với quá nhiều hoài bão.
Thế mà mãi cho đến ngày mất nước, hai chúng tôi vẫn không được may mắn để gặp
lại nhau cho lần kế tiếp.
Vài sự kiện được ghi nhận quanh chiến sự diễn ra trong thời điểm Tống Lê
Chân đỏ lửa:
-Lúc bấy giờ, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III có ý định rút bỏ 4 căn cứ: Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân và Bù Gia Mập. Khi lệnh này truyền đến, Ngôn đã khẳng khái xin được ở lại chiến đấu và nói rằng Biệt Động Quân chưa được đánh địch mà sao lại phải rút lui! Tiếc quá, đừng nên rút. Câu hỏi tiếp theo là liệu có giữ nổi không? Bằng mọi giá, tôi và tất cả binh sĩ đều tình nguyện ở lại với căn cứ này. Đó là câu trả lời cương quyết của nguời chỉ huy và căn cứ đã đứng vững như là lời hứa, mà người chỉ huy thì rất trẻ so với tuổi lính của anh.
-Có một phi vụ từ phi trường Biên Hòa bay vào tiếp tế cho Tống Lê Chân.
Phi vụ này có nhiệm vụ mang quà tưởng thưởng của quân dân miền Nam, lương thực
đạn dược và cặp lon trung tá cho Ngôn. Đặc biệt hơn nữa, người bay phi vụ này
là bạn cùng khoá với Ngôn, Thiếu Tá Phi Công Trần Gia Bảo (Khóa 21 Đà Lạt). Đây
là một nghĩa cử rất anh hùng, bởi vì Bảo rất cảm thông, muốn chia sẻ phần nào
đó về sức chịu đựng phi thường và mang những nhu cầu cần thiết đến cho đơn vị
bạn. Do đó, Bảo đã bất chấp mọi hiểm nguy đang rình rập và tự tình nguyện thực
hiện chuyến bay. Được biết phi vụ này hầu như bay bằng kỹ thuật phi cụ và gồm
hai chiếc Lôi Điểu: Lôi Điểu 1 do Bảo điều khiển đáp trước, Lôi Điểu 2 phải bay
vòng chờ Bảo rời Landing Zone mới nhào xuống. Nhưng chẳng may, chiếc này bị va
chạm làm cho hai người bị thương. Vì có yếu tố bất ngờ và lại bay không đèn,
nên chỉ ghi nhận được những tiếng súng bắn cầu âu của địch mà chẳng hề hấn gì
đến phi cơ.
-K21 Biệt Động Quân Lê Văn Ngôn ngày đêm tử thủ Tống Lê Chân giữa trùng
điệp giặc Bắc, K21 Không Quân Trần Gia Bảo liều mình bay vào lửa tiếp đạn cho
Ngôn diệt quân thù.
-Kẻ thù muốn giết Ngôn ngay từ ngày khởi đầu của cuộc vây hãm, nhưng thực tế chứng minh rằng họ đã thất bại. Sau biến cố đau thương của cả dân tộc vào Tháng Tư Đen, cùng với những sĩ quan khác, Ngôn cũng bị tống vào địa ngục của trần gian này và thêm một lần nữa để họ trả thù.
Ngôn bị đọa đày cho đến hơi tàn lực kiệt! Trong khung trời ảm đạm của một
ngày mùa Đông buốt giá vào cuối năm 1977, tại trại 1, Liên Trại 1, Đoàn 776
thuộc vùng Yên Bái và sau hơn hai tháng chịu đựng từ căn bệnh ung thư gan quái
ác kia, thế mà Ngôn chỉ được điều trị bằng thuốc “thần dược trị bá bệnh xuyên
tâm liên.”
Vào ngày 19 Tháng Giêng, 1978, Ngôn đã vĩnh biệt cõi đời từ nơi ngục tù
Yên Bái ấy, lạnh lùng, âm thầm đi vào lòng đất mẹ, chẳng có một chiến hữu tiễn
đưa, không có môt nén nhang để sưởi ấm Hương Linh!
Ngôn đã chết thật rồi, tức tưởi, đau thương và hẩm hiu đến tột cùng!
Khóa 21 luôn hãnh diện về Ngôn và chúng tôi đã dành nhiều phút im lặng trong
những lúc hội ngộ để mặc niệm và nguyện cầu Vong Linh của anh được ngàn đời yên
nghỉ!
Rồi qua những năm dài sau đó, mãi đến ngày 8 Tháng Ba, 1996, chị quả phụ
Lê Văn Ngôn cùng hai người con đã lặn lội đến tận Yên Bái để mang xương cốt của
người chồng yêu quí về lại nơi chôn nhau cắt rốn, để được ấm áp bên mộ cha, mộ
mẹ, bên mộ ông bà, tổ tiên! Vợ chồng của Ngôn đã hội ngộ trong một hoàn cảnh
như thế đó! Quả là xé lòng qua cái thảm trạng tử biệt sinh ly này! Trên đường
ôm cốt chồng trở về, một bất hạnh khác lại ập xuống gia đình của chị, đứa con
út bị một tai nạn ngay tại Hà Nội và hiện đang sống vất vưởng với mảnh đời tàn
phế!
Thương thay cho thân phận của những ai đã trót làm vợ của người lính
VNCH, nhất là trong một thời loạn ly, lại phải sống tại một xã hội mà bọn quỷ
đỏ đã có cả một chính sách, chủ trương để gieo rắc và cổ võ cho sự hận thù. Sự
bất hạnh đâu có dừng lại tại đó!
Được biết người chị ruột của Ngôn đã làm đơn bảo lãnh cho vợ con của
Ngôn theo chương trình H.O. Nhưng khi được phái đoàn Mỹ phỏng vấn tại Sài Gòn,
thì gia đình này bị từ chối chỉ vì có sự khác biệt về ngày khai tử qua lời khai
giữa người chị và vợ của Ngôn. Quả thật tội nghiệp, đúng là họa vô đơn chí!
Sau Tháng Tư Đen, ngày tang tóc của cả một dân tộc, số phận của quý chị
cũng đã gắn liền với thảm họa ấy, cũng đau thương, cũng nổi trôi, cũng bềnh
bồng và cũng lắm thăng trầm như vận nước của của chúng ta.
304Đen – Llttm - QV
No comments:
Post a Comment