Hoàng Vĩnh Lộc
Hoàng Vĩnh Lộc
là một trong rất ít những người Việt Nam thực sự yêu mê nghệ thuật điện ảnh tôi
được gặp, được biết. Tôi biết Hoàng Vĩnh Lộc từ năm 1952 ở Sài Gòn.
Tôi viết “tôi biết” Hoàng Vĩnh Lộc năm 1952 vì năm ấy tôi chỉ biết anh mà không quen anh, tôi chưa có điều kiện để quen anh, để giao thiệp với anh như người cùng giới văn nghệ sĩ. Năm 1952 tôi chưa là người viết tiểu thuyết trong khi Hoàng Vĩnh Lộc đã là diễn viên điện ảnh.
Năm 1952 là thời gian – có thể vì tôi không phải là dân ăn chơi có hạng nên chỉ thấy – Sài Gòn có mấy người đàn bà nổi tiếng, được nhiều người biết mặt, biết tên. Như nữ ca sĩ Ngọc Hà chuyên đi xe Vespa. Thời ấy có lẽ cả Sài Gòn chỉ có một phụ nữ đi xe Vespa là nữ ca sĩ Ngọc Hà. Như Thu Trang, người ngày ngày mặc áo dài trắng đi xe đạp Dura trắng đến làm việc ở Phòng Thông Tin Hoa Kỳ đường Gia Long – Hai Bà Trưng. Thu Trang vài năm sau trở thành diễn viên điện ảnh. Như Nguyệt Hồ, người có ảnh được lên bìa tuần báo Đời Mới của ông Trần Văn Ân. Những năm 1951, 1952 việc phụ nữ có ảnh đăng bìa tuần báo quan trọng như việc các nàng đóng phim những năm 1960. Nguyệt Hồ về sau hành nghề bói bài tây ở đường Đinh Công Tráng, Tân Định.
Năm 1952 là năm Việt Nam bắt đầu làm phim. Hà Nội có phim Kiếp Hoa với các diễn viên Kim Chung, Kim Xuân, Anh Tứ. Sài Gòn có Thái Thúc Nha Alpha Film làm phim Bến Cũ. Kiếp Hoa phim đen trắng, Bến Cũ phim mầu Technicolor. Hoàng Vĩnh Lộc và Bích Ngà đóng hai vai chính trong phim mầu Bến Cũ, phim còn một nữ diễn viên nữa là Liên Hương.
Bến Cũ chưa được trình chiếu, Hoàng Vĩnh Lộc đã nghiễm nhiên trở thành nam diễn viên số một của điện ảnh Việt Nam, một “jeune premier” đúng nghĩa. Anh hơn tôi chừng mười tuổi. Năm đóng phim Bến Cũ anh khoảng ba mươi, ba mươi hai. Có những buổi sáng, buổi chiều tôi thấy anh trên đường Catinat, Bonard, bận toàn y phục trắng, giầy trắng, lái chiếc xe Peugeot 203 hai chỗ ngồi, mui vải, cũng mầu trắng. Anh hơi cao, nhưng cân đối, khỏe mạnh, trông rất thể thao. Và đẹp trai. Với tôi, anh là diễn viên điện ảnh phong độ nhất, đẹp trai nhất kể từ 1952 đến những năm 1965.
Thời gian qua…
Năm 1960, Hoàng Anh Tuấn làm phim Hai Chuyến Xe Hoa, tôi được Tuấn mời đóng một vai phụ. Những năm 1960, 1961… tôi đang ở đỉnh cao phong độ nhất của đời tôi: tôi đang ba mươi tuổi, đang nổi tiếng, đang viết nhiều, đang kiếm được nhiều tiền. Đó là những năm nhật báo Sài Gòn Mới của ông bà Bút Trà bán chạy nhất và tôi là nhân viên của nhật báo đó. Ngoài việc làm thường trực trong tòa soạn Sài Gòn Mới, tôi viết tiểu thuyết thường xuyên, tức là viết quanh năm, năm này sang năm khác, cho nhật báo Ngôn Luận, tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong của Hồ Anh, tuần báo Kịch Ảnh của Quốc Phong, tuần báo Phụ Nữ Ngày Mai của Sáu Khiết, con bà Bút Trà. Trong tác phẩm Nhìn Lại Những Bến Bờ, xuất bản ở Mỹ năm 1988, viết về tôi trong khoảng những năm 1960, Duyên Anh gọi tôi là “ông vua không ngai” của nhật báo Ngôn Luận. Trên báo Ngôn Luận những năm ấy tôi viết tiểu thuyết ở trang trong, phóng sự tếu ở trang nhất. Làng báo Sài Gòn từ 1954 đến 1975 không có mấy người viết nhiều trên một tờ báo như tôi.
Một buổi chiều, tôi tình cờ lái cái xe Jeep qua khu bờ sông Sài Gòn quãng gần Ngân Hàng Việt Nam. Một êkíp làm phim người Pháp đang thực hiện một đoạn phim ngoại cảnh ở khu này. Phim Mort en Fraude, đào Dominique Wilms trong vai chính. Nhìn thấy Hoàng Vĩnh Lộc và Lê Quỳnh đứng bên đường xem quay phim, tôi ngừng xe, đến nói chuyện với hai anh. Lê Quỳnh hòa nhã, vui vẻ nhưng không nói nhiều. Hoàng Vĩnh Lộc cởi mở, nói nhiều với tôi. Chúng tôi nói đến chuyện Hoàng Anh Tuấn sắp làm phim Hai Chuyến Xe Hoa và tôi được mời đóng một vai. Tuy tôi không hỏi tôi có nên đóng phim hay không, Hoàng Vĩnh Lộc tự ý và sốt sắng nói ra ý kiến của anh:
– Tôi thấy anh không nên đóng phim. Anh đã có cái danh văn sĩ rồi, anh cứ giữ lấy cái danh ấy, đừng dại mà bước sang địa hạt đóng phim. Làm diễn viên điện ảnh không dễ đâu. Phải hy sinh, bị mất mát nhiều lắm, nhất là trong những bước đầu.
Hoàng Vĩnh Lộc khuyên tôi đừng dại mà tập tễnh bước vào nghề diễn viên điện ảnh, tôi đã không làm theo lời anh khuyên, nhưng từ ngày ấy đến nay đã hơn bốn mươi năm, tôi vẫn nhớ hình ảnh anh đứng với tôi chiều hôm xưa trên vỉa hè Sài Gòn gần bờ sông, nhớ từng tiếng anh nói. Anh tỏ ra chân thành, sốt sắng với tôi. Và anh nói đúng về việc tôi không nên đóng phim.
Từ năm 1950 đến khi anh ra khỏi cõi đời này, Hoàng Vĩnh Lộc không làm gì khác ngoài việc đóng phim, làm phim. Dường như anh chỉ có một thời vui vẻ trong nghề, đó là thời anh làm phim “Người Tình Không Chân Dung” (mà chúng tôi gọi đùa là Người Tình Không Chân Tay) với Kiều Chinh, Tâm Phan. Phim được thực hiện ngoại cảnh ở thị xã Cam Ranh thời ông Quang Dù làm thị trưởng, phim mầu Cinemascope, có mặt một số thân hữu như Hùng Sùi, Chương Ma-rin, Vũ Văn Ước, Dương Hùng Cường tức Dê Húc Càn, người đã chết trong ngục tù xã hội chủ nghĩa. Sau “Người Tình Không Chân Dung”, Hoàng Vĩnh Lộc làm một phim của riêng anh: “Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương”. Huy Cường là một diễn viên trong phim này. Huy Cường chết khoảng năm 1976 hay 1977, nghe nói đêm khuya, Huy Cường rượu say, ngồi sau xe Honda về cư xá Thanh Đa, xe đụng, Cường té ngửa, đập đầu xuống đường.
Tháng Ba 1976 Hoàng Vĩnh Lộc bị bắt trong đợt công an Thành Hồ khủng bố văn nghệ sĩ. Giới điện ảnh có bốn người bị bắt trong đợt này: Hoàng Vĩnh Lộc, Hoàng Anh Tuấn, Minh Đăng Khánh, Thân Trọng Kỳ. Mười tháng sau cả bốn anh đều được thả. Hoàng Vĩnh Lộc bị suyễn nặng. Tôi từng thấy anh thời anh trẻ trung, khỏe mạnh, đầy sức sống, tinh anh, rồi lại thấy anh tiều tụy trong buổi xế chiều của đời anh. Rồi một ngày tôi được tin anh qua đời.
Năm 1982 hay 1983? Chiều mưa. Tôi đạp xe đến nhà anh ở trong hẻm đường Chi Lăng. Trước nhà anh là một bãi đất hẹp có vài cây chuối vàng võ, còm cõi. Một cái bàn, vài cái ghế được đặt dưới tấm nylon căng che trên miếng đất ấy. Khách đến viếng ngồi ở đó. Tôi ngồi đó trong bóng chiều vào tối xanh xám, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên tấm nylon, nhìn quan tài anh đặt trong căn nhà hẹp, vài ngọn nến gầy leo lét, lung lay. Đạo diễn điện ảnh Hoàng Vĩnh Lộc có chiều cao hơi quá khổ, người nhà anh phải vất vả mới tìm được cỗ quan tài vừa người anh.
Sau Huy Cường, Hoàng Vĩnh Lộc, Minh Đăng Khánh là người làm điện ảnh thứ ba chết ở Sài Gòn sau ngày 30 Tháng Tư 1975.
Tôi quen Minh Đăng Khánh từ ngày thành phố Sài Gòn mới có Bin-đinh Cửu Long. Khánh ở Cửu Long thời anh chưa lập gia đình. Gần như tất cả những người sống ở Bin-đinh Cửu Long đường Hai Bà Trưng thời ấy đều độc thân. Vài người nổi tiếng: Hiếu Ve, anh có cái ve ở tai nên gọi là Hiếu Ve, nghe nói anh là em ông Trần Văn Chương, chú bà Trần Lệ Xuân. Sau 30 tháng Tư, Hiếu Ve nói anh buồn, anh muốn tự tử. Những ngày ấy Sài Gòn có rất nhiều người buồn muốn chết và nói ra miệng là sẽ tự tử. Hiếu Ve nói và làm thật. Một đêm, anh lên sân thượng bin-đinh Cửu Long nhẩy xuống đất.
Thanh Nam, Hoàng Thư, Thái Thủy, Trần Lâm ABC… từng ở Bin-đinh Cửu Long.
Minh Đăng Khánh nguyên là giáo viên, tên thật dường như là Trần Đăng Lộc. Năm 1954 vào Sài Gòn anh bỏ nghề dậy học để làm văn nghệ sĩ. Anh vẽ rất khá, từng là thầy dậy hội họa của nữ ca sĩ Tâm Vấn.
Minh Đăng Khánh bị bắt Tháng Ba 1976. Cũng như Hoàng Vĩnh Lộc, Thân Trọng Kỳ, Hoàng Anh Tuấn, mười tháng sau anh được thả. Trong số văn nghệ sĩ không phải đi trại cải tạo năm ấy có Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Hồng Dương, Nguyễn Hữu Hiệu, Sao Biển, Xuyên Sơn, Minh Vồ, Trần Việt Sơn, Lê Xuyên v.v…
Nhà Khánh ở Nguyễn Văn Học, nay là đường Nơ Trang Long, cạnh bệnh viện Nguyễn Văn Học. Cuối năm 1979 ở tù về, tôi được tin Khánh bị bại liệt.
Khánh rất khỏe, thời trẻ anh chơi thể dục, trước 1975 có lần anh bảo Hoài Nguyên, con trai tôi, khi anh thấy con tôi mê thể dục, thể thao:
– Muốn chơi thể dục, thể thao ta phải có chiều cao, cháu ạ. Bác thấy mày cũng không có chiều cao như bác. Tập người nở ra vuông như cái bánh chưng, khó coi lắm.
Khánh sống rất lành mạnh, không chơi bời, không hút xách, không rượu, không cờ bịch, anh chỉ hút pipe. Anh vạm vỡ, nước da nâu, tóc bạc, chúng tôi vẫn nói anh khỏe như trâu. Không thấy Khánh có tật xấu nào, vậy mà đi tù về tự nhiên anh bại liệt. Nghe nói anh gặp nhiều chuyện buồn phiền trong gia đình, sau một trận cãi cọ to tiếng anh hút điếu thuốc lào, ngã ra, và bị bại liệt nửa người.
Tôi tìm Minh Đăng Khánh, chúng tôi nối lại cuộc giao du bị đứt đoạn vì tai họa, tù đày. Khánh nói ngọng, anh vẫn đi lại được dù đi chậm, lê lết, khó khăn, không ngồi vững được. Mỗi lần Khánh từ Nguyễn Văn Học, Bà Chiểu ra nhà tôi ở Ngã Ba Ông Tạ là cả một hành trình cần phải thu xếp. Phải có một anh em còn khỏe – thường là Sao Biển – chở anh trên xe đạp, để anh ngồi trên poóc-ba-ga, tay trái anh vòng ra ôm người chở (Khánh bị liệt nửa người bên phải) đạp xe chầm chậm. Khánh ngã xuống là không tự mình đứng lên được. Ở nhà một mình mỗi lần té anh phải nằm đấy chờ cho đến lúc con anh về đỡ dậy.
Khánh thường bận bộ bà ba nâu, ngoài bận cái áo judo cho đỡ lạnh trong những ngày cuối năm, đeo cái túi vải nát trong đựng các thứ đồ lẩm cẩm: khăn mặt, tiền, giấy tờ, cái pipe, bịch thuốc hút.
Khánh kể có lần anh lết lết đi vào tiệm phở: “Người ta tưởng tao ăn xin, cho tao tiền, tao nói cám ơn tôi không phải là ăn mày…”
Những năm 1981, 1982, căn nhà nhỏ của vợ chồng tôi ở Ngã Ba Ông Tạ là nơi gặp gỡ của các bạn tôi. Các bạn góp tiền đưa cho vợ tôi đi chợ, mua chút gì đó về làm một món nhậu, nấu cho nồi cháo, vừa nhiều, vừa ngon. Chúng tôi có thể ngồi ăn uống, nói chuyện thoải mái từ năm, sáu giờ chiều đến chín, muời giờ tối. Tất nhiên trong những buổi ăn như thế chúng tôi cũng cố xoay được chút rượu cho ấm lòng chiến sĩ.
Nhà tôi có căn gác lửng. Mỗi lần đến Khánh thường lết lên đó nằm nói chuyện với tôi cả hai, ba tiếng đồng hồ. Thang gác nhỏ síu, Khánh lên thang bằng cách ngồi xoay lưng, nhấn chân nhổm đít lên từng bậc, lúc xuống cũng vậy. Vì Khánh lên xuống thang khó khăn như thế nên tôi giải quyết vấn đề tiểu tiện cho Khánh bằng cách lấy cái bô lên gác, tôi bưng bô cho Khánh đứng đái.
Một sáng, con trai Khánh đến báo tin Khánh chết. Khánh đã thoát nợ, Khánh đã hết khổ. Tôi đến một trong những cái gọi là Xưởng Phim của Thành Hồ, ở đường Điện Biên Phủ, báo tin Khánh mất với Lê Hoàng Hoa. Có khá đông anh em đến tiễn đưa Khánh sáng hôm ấy.
Dòng thời gian dài một ánh bay…
Hôm nay, một trong những ngày cuối đời liêu lạc ở quê người, nhớ lại, viết về những người bạn của tôi đã sống, đã chết, tôi thấy ẩn hiện hình ảnh Hoàng Vĩnh Lộc trên chiếc Peugeot decapotip trắng đậu trước nhà hàng Kim Hoa đường Bonard-Pellerin một buổi chiều Sài Gòn nắng vàng năm 1952, nhớ anh một chiều mưa năm 1967 anh đến tòa soạn nhật báo Dân Tiến hẹn tôi đến Trung Tâm Quốc Gia Điện Ảnh xem chiếu phim Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương vừa mới hoàn thành… Tôi nhớ hình ảnh Minh Đăng Khánh một tối năm 1955, Khánh đến nhà tôi gọi vợ chồng tôi đi ăn phở gà Hiền Vương, nhớ một tối gần Tết, Khánh chở tôi trên xe Lambretta của anh lên Hội Chợ Quang Trung dự cuộc thi Hoa Hậu Đông Phương. Đây là cuộc thi hoa hậu thứ nhất của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, cuộc thi do hãng phim Đông Phương của anh Đỗ Bá Thế tổ chức – Đông Phương Films làm phim Ánh Sáng Miền Nam – tôi bùi ngùi nhớ những lần tôi bưng bô cho Khánh đái…
Tôi viết “tôi biết” Hoàng Vĩnh Lộc năm 1952 vì năm ấy tôi chỉ biết anh mà không quen anh, tôi chưa có điều kiện để quen anh, để giao thiệp với anh như người cùng giới văn nghệ sĩ. Năm 1952 tôi chưa là người viết tiểu thuyết trong khi Hoàng Vĩnh Lộc đã là diễn viên điện ảnh.
Năm 1952 là thời gian – có thể vì tôi không phải là dân ăn chơi có hạng nên chỉ thấy – Sài Gòn có mấy người đàn bà nổi tiếng, được nhiều người biết mặt, biết tên. Như nữ ca sĩ Ngọc Hà chuyên đi xe Vespa. Thời ấy có lẽ cả Sài Gòn chỉ có một phụ nữ đi xe Vespa là nữ ca sĩ Ngọc Hà. Như Thu Trang, người ngày ngày mặc áo dài trắng đi xe đạp Dura trắng đến làm việc ở Phòng Thông Tin Hoa Kỳ đường Gia Long – Hai Bà Trưng. Thu Trang vài năm sau trở thành diễn viên điện ảnh. Như Nguyệt Hồ, người có ảnh được lên bìa tuần báo Đời Mới của ông Trần Văn Ân. Những năm 1951, 1952 việc phụ nữ có ảnh đăng bìa tuần báo quan trọng như việc các nàng đóng phim những năm 1960. Nguyệt Hồ về sau hành nghề bói bài tây ở đường Đinh Công Tráng, Tân Định.
Năm 1952 là năm Việt Nam bắt đầu làm phim. Hà Nội có phim Kiếp Hoa với các diễn viên Kim Chung, Kim Xuân, Anh Tứ. Sài Gòn có Thái Thúc Nha Alpha Film làm phim Bến Cũ. Kiếp Hoa phim đen trắng, Bến Cũ phim mầu Technicolor. Hoàng Vĩnh Lộc và Bích Ngà đóng hai vai chính trong phim mầu Bến Cũ, phim còn một nữ diễn viên nữa là Liên Hương.
Bến Cũ chưa được trình chiếu, Hoàng Vĩnh Lộc đã nghiễm nhiên trở thành nam diễn viên số một của điện ảnh Việt Nam, một “jeune premier” đúng nghĩa. Anh hơn tôi chừng mười tuổi. Năm đóng phim Bến Cũ anh khoảng ba mươi, ba mươi hai. Có những buổi sáng, buổi chiều tôi thấy anh trên đường Catinat, Bonard, bận toàn y phục trắng, giầy trắng, lái chiếc xe Peugeot 203 hai chỗ ngồi, mui vải, cũng mầu trắng. Anh hơi cao, nhưng cân đối, khỏe mạnh, trông rất thể thao. Và đẹp trai. Với tôi, anh là diễn viên điện ảnh phong độ nhất, đẹp trai nhất kể từ 1952 đến những năm 1965.
Thời gian qua…
Năm 1960, Hoàng Anh Tuấn làm phim Hai Chuyến Xe Hoa, tôi được Tuấn mời đóng một vai phụ. Những năm 1960, 1961… tôi đang ở đỉnh cao phong độ nhất của đời tôi: tôi đang ba mươi tuổi, đang nổi tiếng, đang viết nhiều, đang kiếm được nhiều tiền. Đó là những năm nhật báo Sài Gòn Mới của ông bà Bút Trà bán chạy nhất và tôi là nhân viên của nhật báo đó. Ngoài việc làm thường trực trong tòa soạn Sài Gòn Mới, tôi viết tiểu thuyết thường xuyên, tức là viết quanh năm, năm này sang năm khác, cho nhật báo Ngôn Luận, tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong của Hồ Anh, tuần báo Kịch Ảnh của Quốc Phong, tuần báo Phụ Nữ Ngày Mai của Sáu Khiết, con bà Bút Trà. Trong tác phẩm Nhìn Lại Những Bến Bờ, xuất bản ở Mỹ năm 1988, viết về tôi trong khoảng những năm 1960, Duyên Anh gọi tôi là “ông vua không ngai” của nhật báo Ngôn Luận. Trên báo Ngôn Luận những năm ấy tôi viết tiểu thuyết ở trang trong, phóng sự tếu ở trang nhất. Làng báo Sài Gòn từ 1954 đến 1975 không có mấy người viết nhiều trên một tờ báo như tôi.
Một buổi chiều, tôi tình cờ lái cái xe Jeep qua khu bờ sông Sài Gòn quãng gần Ngân Hàng Việt Nam. Một êkíp làm phim người Pháp đang thực hiện một đoạn phim ngoại cảnh ở khu này. Phim Mort en Fraude, đào Dominique Wilms trong vai chính. Nhìn thấy Hoàng Vĩnh Lộc và Lê Quỳnh đứng bên đường xem quay phim, tôi ngừng xe, đến nói chuyện với hai anh. Lê Quỳnh hòa nhã, vui vẻ nhưng không nói nhiều. Hoàng Vĩnh Lộc cởi mở, nói nhiều với tôi. Chúng tôi nói đến chuyện Hoàng Anh Tuấn sắp làm phim Hai Chuyến Xe Hoa và tôi được mời đóng một vai. Tuy tôi không hỏi tôi có nên đóng phim hay không, Hoàng Vĩnh Lộc tự ý và sốt sắng nói ra ý kiến của anh:
– Tôi thấy anh không nên đóng phim. Anh đã có cái danh văn sĩ rồi, anh cứ giữ lấy cái danh ấy, đừng dại mà bước sang địa hạt đóng phim. Làm diễn viên điện ảnh không dễ đâu. Phải hy sinh, bị mất mát nhiều lắm, nhất là trong những bước đầu.
Hoàng Vĩnh Lộc khuyên tôi đừng dại mà tập tễnh bước vào nghề diễn viên điện ảnh, tôi đã không làm theo lời anh khuyên, nhưng từ ngày ấy đến nay đã hơn bốn mươi năm, tôi vẫn nhớ hình ảnh anh đứng với tôi chiều hôm xưa trên vỉa hè Sài Gòn gần bờ sông, nhớ từng tiếng anh nói. Anh tỏ ra chân thành, sốt sắng với tôi. Và anh nói đúng về việc tôi không nên đóng phim.
Từ năm 1950 đến khi anh ra khỏi cõi đời này, Hoàng Vĩnh Lộc không làm gì khác ngoài việc đóng phim, làm phim. Dường như anh chỉ có một thời vui vẻ trong nghề, đó là thời anh làm phim “Người Tình Không Chân Dung” (mà chúng tôi gọi đùa là Người Tình Không Chân Tay) với Kiều Chinh, Tâm Phan. Phim được thực hiện ngoại cảnh ở thị xã Cam Ranh thời ông Quang Dù làm thị trưởng, phim mầu Cinemascope, có mặt một số thân hữu như Hùng Sùi, Chương Ma-rin, Vũ Văn Ước, Dương Hùng Cường tức Dê Húc Càn, người đã chết trong ngục tù xã hội chủ nghĩa. Sau “Người Tình Không Chân Dung”, Hoàng Vĩnh Lộc làm một phim của riêng anh: “Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương”. Huy Cường là một diễn viên trong phim này. Huy Cường chết khoảng năm 1976 hay 1977, nghe nói đêm khuya, Huy Cường rượu say, ngồi sau xe Honda về cư xá Thanh Đa, xe đụng, Cường té ngửa, đập đầu xuống đường.
Tháng Ba 1976 Hoàng Vĩnh Lộc bị bắt trong đợt công an Thành Hồ khủng bố văn nghệ sĩ. Giới điện ảnh có bốn người bị bắt trong đợt này: Hoàng Vĩnh Lộc, Hoàng Anh Tuấn, Minh Đăng Khánh, Thân Trọng Kỳ. Mười tháng sau cả bốn anh đều được thả. Hoàng Vĩnh Lộc bị suyễn nặng. Tôi từng thấy anh thời anh trẻ trung, khỏe mạnh, đầy sức sống, tinh anh, rồi lại thấy anh tiều tụy trong buổi xế chiều của đời anh. Rồi một ngày tôi được tin anh qua đời.
Năm 1982 hay 1983? Chiều mưa. Tôi đạp xe đến nhà anh ở trong hẻm đường Chi Lăng. Trước nhà anh là một bãi đất hẹp có vài cây chuối vàng võ, còm cõi. Một cái bàn, vài cái ghế được đặt dưới tấm nylon căng che trên miếng đất ấy. Khách đến viếng ngồi ở đó. Tôi ngồi đó trong bóng chiều vào tối xanh xám, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên tấm nylon, nhìn quan tài anh đặt trong căn nhà hẹp, vài ngọn nến gầy leo lét, lung lay. Đạo diễn điện ảnh Hoàng Vĩnh Lộc có chiều cao hơi quá khổ, người nhà anh phải vất vả mới tìm được cỗ quan tài vừa người anh.
Sau Huy Cường, Hoàng Vĩnh Lộc, Minh Đăng Khánh là người làm điện ảnh thứ ba chết ở Sài Gòn sau ngày 30 Tháng Tư 1975.
Tôi quen Minh Đăng Khánh từ ngày thành phố Sài Gòn mới có Bin-đinh Cửu Long. Khánh ở Cửu Long thời anh chưa lập gia đình. Gần như tất cả những người sống ở Bin-đinh Cửu Long đường Hai Bà Trưng thời ấy đều độc thân. Vài người nổi tiếng: Hiếu Ve, anh có cái ve ở tai nên gọi là Hiếu Ve, nghe nói anh là em ông Trần Văn Chương, chú bà Trần Lệ Xuân. Sau 30 tháng Tư, Hiếu Ve nói anh buồn, anh muốn tự tử. Những ngày ấy Sài Gòn có rất nhiều người buồn muốn chết và nói ra miệng là sẽ tự tử. Hiếu Ve nói và làm thật. Một đêm, anh lên sân thượng bin-đinh Cửu Long nhẩy xuống đất.
Thanh Nam, Hoàng Thư, Thái Thủy, Trần Lâm ABC… từng ở Bin-đinh Cửu Long.
Minh Đăng Khánh nguyên là giáo viên, tên thật dường như là Trần Đăng Lộc. Năm 1954 vào Sài Gòn anh bỏ nghề dậy học để làm văn nghệ sĩ. Anh vẽ rất khá, từng là thầy dậy hội họa của nữ ca sĩ Tâm Vấn.
Minh Đăng Khánh bị bắt Tháng Ba 1976. Cũng như Hoàng Vĩnh Lộc, Thân Trọng Kỳ, Hoàng Anh Tuấn, mười tháng sau anh được thả. Trong số văn nghệ sĩ không phải đi trại cải tạo năm ấy có Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Hồng Dương, Nguyễn Hữu Hiệu, Sao Biển, Xuyên Sơn, Minh Vồ, Trần Việt Sơn, Lê Xuyên v.v…
Nhà Khánh ở Nguyễn Văn Học, nay là đường Nơ Trang Long, cạnh bệnh viện Nguyễn Văn Học. Cuối năm 1979 ở tù về, tôi được tin Khánh bị bại liệt.
Khánh rất khỏe, thời trẻ anh chơi thể dục, trước 1975 có lần anh bảo Hoài Nguyên, con trai tôi, khi anh thấy con tôi mê thể dục, thể thao:
– Muốn chơi thể dục, thể thao ta phải có chiều cao, cháu ạ. Bác thấy mày cũng không có chiều cao như bác. Tập người nở ra vuông như cái bánh chưng, khó coi lắm.
Khánh sống rất lành mạnh, không chơi bời, không hút xách, không rượu, không cờ bịch, anh chỉ hút pipe. Anh vạm vỡ, nước da nâu, tóc bạc, chúng tôi vẫn nói anh khỏe như trâu. Không thấy Khánh có tật xấu nào, vậy mà đi tù về tự nhiên anh bại liệt. Nghe nói anh gặp nhiều chuyện buồn phiền trong gia đình, sau một trận cãi cọ to tiếng anh hút điếu thuốc lào, ngã ra, và bị bại liệt nửa người.
Tôi tìm Minh Đăng Khánh, chúng tôi nối lại cuộc giao du bị đứt đoạn vì tai họa, tù đày. Khánh nói ngọng, anh vẫn đi lại được dù đi chậm, lê lết, khó khăn, không ngồi vững được. Mỗi lần Khánh từ Nguyễn Văn Học, Bà Chiểu ra nhà tôi ở Ngã Ba Ông Tạ là cả một hành trình cần phải thu xếp. Phải có một anh em còn khỏe – thường là Sao Biển – chở anh trên xe đạp, để anh ngồi trên poóc-ba-ga, tay trái anh vòng ra ôm người chở (Khánh bị liệt nửa người bên phải) đạp xe chầm chậm. Khánh ngã xuống là không tự mình đứng lên được. Ở nhà một mình mỗi lần té anh phải nằm đấy chờ cho đến lúc con anh về đỡ dậy.
Khánh thường bận bộ bà ba nâu, ngoài bận cái áo judo cho đỡ lạnh trong những ngày cuối năm, đeo cái túi vải nát trong đựng các thứ đồ lẩm cẩm: khăn mặt, tiền, giấy tờ, cái pipe, bịch thuốc hút.
Khánh kể có lần anh lết lết đi vào tiệm phở: “Người ta tưởng tao ăn xin, cho tao tiền, tao nói cám ơn tôi không phải là ăn mày…”
Những năm 1981, 1982, căn nhà nhỏ của vợ chồng tôi ở Ngã Ba Ông Tạ là nơi gặp gỡ của các bạn tôi. Các bạn góp tiền đưa cho vợ tôi đi chợ, mua chút gì đó về làm một món nhậu, nấu cho nồi cháo, vừa nhiều, vừa ngon. Chúng tôi có thể ngồi ăn uống, nói chuyện thoải mái từ năm, sáu giờ chiều đến chín, muời giờ tối. Tất nhiên trong những buổi ăn như thế chúng tôi cũng cố xoay được chút rượu cho ấm lòng chiến sĩ.
Nhà tôi có căn gác lửng. Mỗi lần đến Khánh thường lết lên đó nằm nói chuyện với tôi cả hai, ba tiếng đồng hồ. Thang gác nhỏ síu, Khánh lên thang bằng cách ngồi xoay lưng, nhấn chân nhổm đít lên từng bậc, lúc xuống cũng vậy. Vì Khánh lên xuống thang khó khăn như thế nên tôi giải quyết vấn đề tiểu tiện cho Khánh bằng cách lấy cái bô lên gác, tôi bưng bô cho Khánh đứng đái.
Một sáng, con trai Khánh đến báo tin Khánh chết. Khánh đã thoát nợ, Khánh đã hết khổ. Tôi đến một trong những cái gọi là Xưởng Phim của Thành Hồ, ở đường Điện Biên Phủ, báo tin Khánh mất với Lê Hoàng Hoa. Có khá đông anh em đến tiễn đưa Khánh sáng hôm ấy.
Dòng thời gian dài một ánh bay…
Hôm nay, một trong những ngày cuối đời liêu lạc ở quê người, nhớ lại, viết về những người bạn của tôi đã sống, đã chết, tôi thấy ẩn hiện hình ảnh Hoàng Vĩnh Lộc trên chiếc Peugeot decapotip trắng đậu trước nhà hàng Kim Hoa đường Bonard-Pellerin một buổi chiều Sài Gòn nắng vàng năm 1952, nhớ anh một chiều mưa năm 1967 anh đến tòa soạn nhật báo Dân Tiến hẹn tôi đến Trung Tâm Quốc Gia Điện Ảnh xem chiếu phim Xin Nhận Nơi Này Làm Quê Hương vừa mới hoàn thành… Tôi nhớ hình ảnh Minh Đăng Khánh một tối năm 1955, Khánh đến nhà tôi gọi vợ chồng tôi đi ăn phở gà Hiền Vương, nhớ một tối gần Tết, Khánh chở tôi trên xe Lambretta của anh lên Hội Chợ Quang Trung dự cuộc thi Hoa Hậu Đông Phương. Đây là cuộc thi hoa hậu thứ nhất của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, cuộc thi do hãng phim Đông Phương của anh Đỗ Bá Thế tổ chức – Đông Phương Films làm phim Ánh Sáng Miền Nam – tôi bùi ngùi nhớ những lần tôi bưng bô cho Khánh đái…
Hoàng Hải Thủy
(Trích từ Sống
Và Chết Ở Sài Gòn – phần 15)
304Đen –
Llttm - YD
No comments:
Post a Comment