Ba con cáo
Mặc dầu là tay “bán trời không
mời thiên lôi”, Sáu Sửu vẫn nghe rờn rợn khi nhìn ra ngoài.
Thánh giá trắng đứng mơ hồ
trong ánh sáng lờ mờ của nghĩa địa, sắp thành hàng ngũ đông đúc, nhánh ngang
của thánh giá trông mường tượng như những cánh tay người giăng ra để đón bắt
ai.
Xa xa, một trụ vôi có dáng một
người đàn bà đội khăn tang trắng, đứng nhìn đám mồ trước mặt bà ta.
Gió đêm, cùng với dế, trùn, họp
nhau mà than vãn bên hàng nghìn mồ hoang mả lạnh, và thỉnh thoảng, anh Sáu vẳng
nghe như có tiếng người rên rỉ đâu đây.
Từ một ngôi mả cũ đằng xa, một
ánh lửa lóe lên, nhỏ bằng ngón tay, từ từ bay lên cao rồi đi bơ vơ qua các hàng
thánh giá. Lửa ma trơi hay là đèn của một người đi soi ếch nào đó?
Mưa dầm tháng tám rơi trên nước
ao tù khiến anh Sáu có cảm giác rằng mình đang ngủ trên một chiếc thuyền, giữa
dòng nước.
Lạnh quá, lạnh ngoài da, mà
lạnh cả đến trong lòng.
Người sống, một khi xâm nhập
vào địa hạt của người chết, mới nhận được rằng cuộc đời bên ngoài dầu đau khổ
bao nhiêu cũng còn ấm chán.
Tại phố Phát Diệm, khúc phía
trên này, họ Cầu Kho có một đất thánh mà từ vài năm nay nhà thờ không cho chôn
trong đó nữa.
Dân số nghĩa địa cứ mỗi ngày
một tăng lên, mà không có một ai chết lần thứ nhì cả để cho số sanh và số tử bù
trừ nhau hầu đất đai trống bớt chỗ.
Ngoài thành phố, người ta đẻ
con, nhưng người ta lại chôn ông, nhà cửa thành thử không chật thêm được. Ở đây
mồ mả sanh ra rồi già cỗi dưới rêu xanh của sương gió, nhưng vẫn nằm lì đó đến
muôn thu.
Vì vậy nghĩa địa phải chịu nạn
nhơn mãn. Nhà thờ không cho chôn xác thêm vào đó, rồi cũng chểnh mảng việc
trông nom đất thánh nên người sống đang thiếu đất, bèn ùa đến mà lấn người
chết.
Nghĩa địa không có vách thành.
Ban đầu vài người mạo hiểm cất nhà ngay trên ranh đất thánh. Thấy không ai nói
gì, một số người khác lách qua khỏi mấy cái nhà vừa cất lên, để vô trong mà xây
cất.
Họ cất vây tứ phía ngôi đất
thánh và vòng vây cứ càng ngày càng siết chặt lại, người chết không còn lối nào
để thoát ra được nữa cả.
Khi vòng vây siết đến lằn mức chót, nghĩa là những ngôi mộ ở bìa, thì cuộc xô lấn bắt đầu diễn ra một cách đau thương.
Khi vòng vây siết đến lằn mức chót, nghĩa là những ngôi mộ ở bìa, thì cuộc xô lấn bắt đầu diễn ra một cách đau thương.
Người sống cũng biết đau lòng
khi phải dẫm lên những gò mả còn mới rành rành (nhiều mô. bia, thánh giá, đề
năm chôn là 1951) nhưng họ, ác thay, lại cũng biết lạnh. Cho nên họ cứ cất nhà
trên những nấm đất ấy, xin người chết thứ lỗi, miễn là có chỗ núp mưa thì thôi.
Không bao giờ kẻ sống và người
chết lại sát cánh nhau đến thế. Ông đã chết rồi, ông choán đất làm chi cho
nhiều, trong khi tôi không có lấy một vuông nhỏ để mà cắm cây cột gỗ; vậy ông
thứ lỗi nhé! Rồi ngày sau tôi cũng hoàn lại đất như ông vậy mà; trần gian nầy
chỉ là cõi tạm thôi, tranh nhau làm gì!
Cuộc xâm lăng lặng lẽ để tranh
sống với người chết, gây ra một tai hại lạ kỳ.
Vùng đất ấy ngày xưa tuy cũng
thấp mà vẫn khô ráo, nhờ con rạch Bần tháo nước ra sông Ông Lãnh. Nhưng từ khi
đô thành cho đắp đại lộ Trần Hưng Đạo, cách đây mấy mươi năm, thì ngọn rạch Bần
bị lấp, và nước mưa trên nầy bị bỏ tù lại đến chung thân khổ sai, vì khu ấy đất
trũng mà!
Đất thánh không phải ở giữa rún
đất nên không đọng nước. Nhưng vòng vây tai hại kia lại biến thành con đê ngăn
nước đất thánh đô? xuống chỗ trũng hơn.
Thành thử phần nhiều ngôi mộ đã
biến thành cù lao, có cù lao rời rạc, có mớ họp thành quần đảo, không còn làm
sao ra đó được nữa. Nước tù mang một màu khó tả và một mùi cũng khôn tả. Đáy ao
biến thành bùn non, đi thì lún đến ống quyển.
Lau, sậy, đế tha hồ mà mọc như
ở bưng miền xa.
Giữa đất thánh còn sót lại một
ngôi mộ cổ kiến trúc theo bên lương mà có lẽ nhà thờ không nỡ phá đi lúc lập ra
đất thánh cho giáo dân nầy.
Ngôi mộ ấy đồ sộ nhứt nghĩa
địa, xây bằng vôi và ô dước, xanh đặc những rêu phủ. Lối kiến trúc rất rắc rối
như một lâu đài, đầy rẫy ngăn nắp với nào là đường vào lối ra quanh co và hóc
hiểm.
Hôm ấy những người của vòng vây
đều ngạc nhiên mà thấy một mái nhà lá dựng ngay trên ngôi mộ cổ ấy.
Nhà dựng đâu từ sớm mai đến
trưa là xong cả. Họ cứ tự hỏi, và hỏi nhau làm thế nào mà chủ nếp nhà ấy lội
sình để ra ngoài đó được. Đi tay không đã không được rồi, mà làm sao hắn ta lại
mang cả gỗ, tre và lá ra đó để cất nhà?
Hỏi nhau không ai đáp được, mà
cũng chẳng mong phỏng vấn thằng cha dị hợm kia, họ đành thôi. Thét rồi mắt họ
quen đi, nếp nhà ăn vào chân trời quen thuộc của họ, họ nhận cho nó ơ? đó mà
không bàn tới bàn lui gì nữa cả.
Sáu Sửu ngày trước có ở xóm
Phát Diệm. Năm ấy có người treo cổ trong nhà mồ ở bìa đất thánh. Anh đã vào đó
với nhiều kẻ hiếu kỳ khác để xem kẻ chết treo, nên được dịp biết rõ nghĩa địa.
Hôm tháng rồi anh bị truy nã
ráo riết nên cố tìm một chỗ ẩn nấp thật kín. Nhớ lại xóm cũ với cái nghĩa địa
kia, anh về qua đó và rất hài lòng mà gặp hòn đảo nầy.
Không một viên cảnh sát nào đủ
can đảm lội sình nhứt là dầm chơn trong một thứ nước nhơn nhớt để ra ngoài đảo
Lỗ Bình Sơn của anh.
Nếu có cuộc bố ráp đại qui mô
như hồi còn Tây thì bất quá họ cũng đứng ngoài mà nhìn vào, hú bậy vài tiếng
như hú đò bên kia sông, rồi đò không qua thì thôi. Họ nghĩ sót một con cá cũng
chưa chết ai, mà biết đâu cá đó lại không phải cá hiền, một tên ăn mày nào đó
chớ gì.
Từ vòng vây ở ngoài, leo lét
vài ngọn đèn dầu của những kẻ lấn đất người chết. Xa thật xa ngoài kia, ánh
sáng đô thành làm nổi bật lên, đen thui, những ngôi nhà lầu, những ngọn cây
cao. Các thứ nầy giống hệt những hình bằng giấy đen, người ta cắt rồi dán lên
nền trời.
Bỗng anh Sáu nghe rục rịch dưới
sàn ván. Hôm cất nhà xong, anh lót ván lên mộ, vừa để làm nền nhà, vừa để làm
giường ngủ. Dưới ván rầm ấy, lau sậy bị đè đầu xuống, và sẽ chết lần mòn vì
thiếu ánh sáng.
Anh Sáu quên, một thứ khác,
cũng giống như lau sậy, mà biết cục cựa nữa kia. Vì thế đêm nay trời có trăng,
anh ngồi ngó một ra đám rừng thánh giá trắng thì anh phải một phen hết hồn
trước sự hiện ra của một chú chồn to bằng con chó ta.
Chồn khua lau sậy sột soạt, rồi
chui ra khỏi mộ, ngoái cổ lại dòm cái nhà mà đêm hôm qua đây chưa có. Suốt ngày
hôm ấy nó nằm trong hang, không dám ló ra nên không biết ngoài này loài người
làm gì mà lục đục mãi.
Đôi mắt nó lóng lánh dưới ánh
trăng, ngạc nhiên giây lát rồi bỏ đi. Nó đã quen với con người rồi nên không có
vẻ gì sợ sệt cả.
Nhưng anh Sáu lại sợ. Anh có
đọc truyện Phong Thần nói chuyện mả Huỳnh Đế có một bầy hồ ly mà một con đã nổi
danh trong lịch sử, là cái con đã biến thành nàng Tô Đắc Kỷ; đến nay thấy chồn
trong mộ chui ra, anh liên tưởng ngay đến tích cũ rồi rợn người lên.
Nhưng anh trấn tĩnh lại được.
Trong dân chúng người ta tin chắc như đinh đóng cột rằng tóc người chết hóa
thành con lươn, rồi con lươn hóa thành con chồn. Con chồn mà anh thấy, có lẽ
chỉ là thối thân của tóc người nằm dưới nhà mồ, chớ không phải yêu quái gì đâu.
Độ nửa tiếng đồng hồ sau, anh
Sáu thấy chồn về, mõm ngậm một con vịt.
– A ha, đồng đạo đây mà! Anh
Sáu cười mà nói thầm như vậy rồi cảm tình ngày với con thú nầy.
Cái đạo mà anh nói đó là đạo …
chích; trước kia, trước khi lường gạt và cướp giựt, anh cũng đã đi ăn cắp gà
như chú chồn nầy vậy.
Ngày nay anh thôi ăn cắp, nhưng
lại biến thành con cáo già chuyên môn gạt gẫm thiên hạ.
– Mầy cáo thì tao đây cũng cáo,
vậy thì là bồ rồi.
Từ đó, hai con cáo chung đụng
với nhau mà không xích mích bao giờ cả.
Nghe động dưới sàn, anh Sáu mỉm
cười lẩm bẩm:
– Đồng nghiệp xuất quân đó đa!
Anh Sáu nhờ cậy con chồn nầy
lắm. Có nó ở dưới ấy thì không còn lo rắn rít nữa. Anh mong có dịp trả ơn nó,
nhưng nó có đói bao giờ đâu để anh ra tay hào phóng mua cho nó một con gà. Xóm
lao động vây quanh nghĩa địa, người ta nuôi gà vịt cả bầy, nó ăn đến già cũng
chưa hết.
Bỗng anh Sáu nghe có tiếng chó
sủa vang dậy lên. Tiếng sủa to lắm và oai vệ lắm, có lẽ đó là tiếng chó
bẹc-giê.
Rồi lại nghe nước khua lũm chũm,
với tiếng chó càng lúc càng đến gần anh. Anh Sáu bước ra dòm thì thấy bạn của
anh đang chạy bán sống bán chết trước một con chó to thấy mà bắt ớn.
Anh Sáu thò tay vào trong rút
cây chĩa ba ra, cây chĩa anh sắm để chĩa ếch dưới nước, rồi lẹ như chớp, anh chìa
mũi chĩa đón đầu chó cho chồn đủ ngày giờ chui vào mả.
Chó bẹc-giê chạy quá đà, bị mũi
chĩa đâm vào mõm đau điếng, rống lên vài tiếng rồi trở bước, vừa đi vừa day
lại, sủa om như chửi thề.
Anh Sáu cười ha hả rồi cúi
xuống sàn mà nói:
– Đêm nay tổ trác rồi đó phải
không em! Anh đây cũng bị rượt thường lắm, nhưng đều thoát khỏi cả. Bây giờ thì
đố ai mà dám theo anh vào chốn nầy. Chỗ ở tụi mình kín số dách.
Sáng hôm ấy, anh Sáu đi uống
cà-phê, về tới nhà thì ngạc nhiên hết sức. Trên một ngôi mô. cận mộ anh, một
chòi lá đã dựng lên rồi.
Ngộ quá, nhà cửa sao mà mọc mau
lẹ như nấm mối. Uống xong tách cà-phê, đọc xong trang nhứt một tờ nhựt báo là
một túp lều cũng vừa dựng xong. Phải mà, chỉ có bốn cây cột thôi thì chậm sao
được!
Anh Sáu ngạc nhiên mà thấy có một
người thứ nhì lại biết con đường bí mật đưa vào đó! Anh lại tức vì túp lều ấy
chặn ngay đầu đường bí mật của anh.
Số là anh Sáu biết lợi dụng mấy
ngôi mộ chung quanh nên mới vào đây được. Anh phải đi quanh co nhiều nơi, nhảy
từ ngôi mộ nầy qua ngôi mộ khác, ra cửa nhà thì đi hướng đông, nhưng ra khỏi
nghĩa địa lại ra hướng tây, nghĩa là anh phải đánh một cái vòng rất lớn và rất
cong quẹo.
Túp lều tranh ấy cất ngay trên
ngôi mộ anh dùng làm đầu cầu cuối cùng để nhảy vào nhà anh, thì anh còn làm sao
mà về nhà được, nếu hắn không cho anh nhảy ngang qua nhà hắn?
Anh tức giận lắm toan vào lều
mần thằng cha nầy một mách cho nó phải giải tỏa hiểm đạo của anh, anh mới nghe
cho.
Anh Sáu vỗ đùi nhảy một cái như bay đi và rơi xuống phiến mộ bia đặt nằm theo lối Châu Âu, trên có khắc mấy giòng chữ như sau:
Ci-git:
Alphonse Thomas Nguyễn-Văn-Nở
décédé en sa 78è année
Priez pour lui (1)
Phiến đá lớn bằng bộ ván hai,
và thằng cha chủ nhà nầy dùng phiến đá ấy để làm bộ ván luôn, nên không thấy nó
lót gì trên ấy cả mà lại để lên đó nào là va-ly, dép … à … mà sao lại dép đàn
bà?
Túp lều che có phân nửa tấm bia
thôi; cửa lều là một bức màn bằng vải bông cũ. Anh Sáu bước tới vén màn lên thì
ô nầy lạ, chủ nhơn bà (chớ không phải chủ nhơn ông) là một thiếu phụ tóc quăn.
Chủ nhơn bà bình tĩnh chào anh
Sáu bằng một mỉm cười yên lặng.
Có lẽ chồng chị ta đi làm rồi
chăng? Nhưng vẫn lạ là chị không có vẻ lao động chút xíu nào hết. Móng tay chị
đỏ choét và nhọn hoắt, nước da mặt của chị bị phấn ăn, chỗ thì mét chằng, chỗ
thì thâm đen sì, mắt chị mệt đừ và sâu hóm như mắt cô đào hát bội.
Y phục của chị cũng không phải
y phục của những kẻ đầu tắt mặt tối: lai quần gắn ren, áo cổ bà lai thêu rằn
rịt xanh đỏ, tóc thì kẹp thành đuôi ngựa, cột bằng ruy-băng màu.
Chị ngồi trên chiếc rương thiếc nhỏ, món đồ từ khí độc nhứt trong chòi, mỉm cười rồi giây lát hất hàm hỏi anh:
– Có tiền mãi lộ không? Nếu không, mỗ không cho đi ngang qua đây. Mỗ đóng đồn ở đây rồi, ai bước qua phải đóng thuế.
Anh Sáu thọc tay vào túi quần
tây cũ của anh đứng thẳng lên coi oai vệ như một tướng cướp trong xi-nê-ma,
cười gằn rồi ngạo nghễ đáp:
– Hỡi cô nữ tướng mã thượng
giang hồ, nữ tướng không có lâu la thì đòi tiền mã lộ ai được. Nữ tướng có giỏi
thì bước ra ngoài đánh với ta vài mươi hiệp cho rõ tài cao thấp.
Nữ tướng cười xòa vì nghe giọng
điệu thì biết đã gặp tay đồng điệu. Tuy bắt nạt hắn không được nhưng bắt bồ với
hắn có thể có lợi.
Anh Sáu xem qua thì biết nữ
tướng thuộc vào hạng người nào trong xã hội rồi. Đây cũng là một kẻ trốn chui
như anh, như con cáo dưới giường anh. Cả ba đều là chồn, nhưng con chồn cái này
đã tu luyện nhiều năm nên mang được hình người. Đây là một thứ hồ ly không hớp
hồn nho sĩ mà chỉ hốt bạc cắc của mấy anh lao động thôi.
Đầu anh Sáu đụng nóc chòi, anh
khó chịu quá nên ngồi xuống:
– Ở đây không sợ mang tội à?
Anh hỏi đùa.
– Chớ còn anh?
– Tôi thì khác. Ngôi mả của tôi
cũ lắm rồi.
Đó là một cái nhà của một người
chết đã đi đầu thai kiếp khác rồi.
Con chồn cái bỗng bỏ cái cười,
buồn nét mặt lại rồi chỉ ra ngôi giáo đường trước nghĩa địa.
Tiểu giáo đường tuy chỉ để làm
lễ mỗi khi đám xác nào tới đây thôi, nhưng cũng đồ sộ bằng một nhà thờ ở thôn
quê. Tuy ngói đã bị tốc nhiều nơi, gạch, đá trên tường nhiều viên đã rã và rớt
xuống, cửa sổ gỗ đã bung hết, cửa kính màu đã bể nát, nhưng toàn thể công trình
kiến trúc gô-tích ấy vẫn còn mang cái phong độ vĩ đại của thời Trung Cổ Châu
Âu.
– Anh thấy không? Chị ta nói.
Nếu mình dám vào trong đó mà ở thì đâu có phạm tội như vầy.
Anh Sáu thở dài rồi không thèm
chào hỏi gì cả vỗ đùi nhảy bay qua nhà anh.
Từ đó bộ ba chịu đựng nhau để
sống chung nhau.
Họ khác nhau ý tứ, phong tục,
thói quen, lối sống, nhưng cả ba con cáo đều có một nỗi băn khoăn chung là cả
ba đều sợ: Con cáo chánh hiệu con … cáo thì sợ chó bẹc-giê, con cáo già sợ Công
An, còn con hồ ly cáo cái thì sợ lính kiểm tục.
Trong cảnh khổ giống nhau, tuy
họ không tương đắc với nhau được và vẫn phải tương thân để bảo vệ nhau, khi
cần. Mà nhứt là để an ủi lẫn nhau.
Anh Sáu không thích đờn bà lắm.
Hay nói cho đúng ra, anh đã chán chê đờn bà, nhứt là chán những hạng đờn bà như
con hồ ly không bao giờ chịu xưng tên nầy.
Nhưng mà những đêm mưa dầm buồn
quá, nằm giữa cánh đồng ma mà được có người để trò chuyện với nó thì ấm biết
bao!
Những đêm mưa như vậy, con hồ
ly không đi kiếm ăn được, mà cũng không đủ sức mạnh để nhảy qua nhà anh Sáu vì
hòn đảo của anh ở xa mãi ngoài giữa dòng nước, nên hồ ly ta thắp lên một ngọn
nến rồi ngồi bó gối mà ca trật lất bản nhạc “Đêm đông”.
“Đêm đông, ca nhi đối gương ôm
sầu riêng bóng”.
Gió đâm sầm vào tiểu giáo đường
đằng trước kia, tung hoàng giữa gian phòng trống mênh mông rồi vừa hú vừa chui
ra khỏi các cửa sổ nghe bắt lạnh mình.
Mấy cây thùy liễu hiếm hoi đã
kháng cự được với lau sậy để sống sót, đứng cúi đầu khóc sướt mướt dưới trận
mưa dầm, trong ánh trăng mờ.
Mộ hàng hàng như bầy cừu nằm
nghỉ, gặm cỏ héo hon và vô vị, hút đắng cay trên miếng đất mồ côi (2).
Đây là chốn mà mộng đời bị cắt
đứt nửa chừng, kẻ chết yên nghỉ thiên thu, mà người sống cũng khó mong trở về
với xã hội loài người.
Anh Sáu nhảy bay qua nhà hồ ly,
như một tay kiếm khách phi dạ hành, rồi hai kẻ ở ngoài vòng pháp luật ấy mới
cùng nhau tâm sự.
Không phải kể chuyện cho khách
nghe, hồ ly khỏi phải thi vị hóa buổi thiếu thời của mình, không cần lòe ai,
con cáo già cũng khỏi anh hùng hóa bước giang hồ của hắn.
Họ đánh bài, mà hạ bài cho nhau
thấy. Bao nhiêu thúi tha nhơ nhớp trong đời họ, họ phơi cả ra như sau đêm mưa,
họ phơi gối trên mồ cho nó bớt âm ẩm khó chịu.
Trời mưa cuối mùa cứ dai dẳng
từ ngày nầy qua ngày khác. Con hồ ly ban đầu ăn xôi, ăn bánh mì chả lụa trừ
cơm. Mãi rồi nó cũng không còn tiền để mua xôi nữa. Đất Sài Gòn, những ngày
cuối tháng mà mưa dầm, thì tiền bạc nó cũng sợ lạnh, không hề dám ló ra ngoài.
Nó có ló ra, con hồ ly mới ăn nem nướng được, còn nó mà trùm chăn thì chồn cái
cũng đành trùm mền mà nhịn đói.
Anh Sáu cũng chẳng thấy đi uống
cà-phê sáng cho ấm bụng. Cũng chẳng thấy khói thuốc bay ra khỏi mái lều của anh
như mọi ngày, và lâu lâu cũng không còn nghe mẩu thuốc vứt xuống ao, tắt kêu
xèo một cái.
Cả hai, vì tự ái hão, đều giả đau
để nằm nhà. Anh Sáu yên thân hơn, còn dám ngồi dậy lết ra lết vô. Còn con hồ ly
thì sợ anh Sáu đi ngang qua đó biết mình giả đò chăng, nên cứ trùm chiếu mãi từ
sáng đến chiều.
Khó chịu quá, ngộp quá, mà anh
Sáu không đi ngang qua lần nào để thấy là nàng ta đang đau ốm thì có tức hay
không chớ?
Hết mưa rồi nắng. Anh Sáu ra
đi. Ngang qua nhà hồ ly, anh lấy chơn lật chiếu ra thì thấy hồ ly nằm xụi lơ.
Nàng đau ốm thật đó, đau một chứng bịnh cổ điển của loài người, là bịnh … đói.
Anh Sáu mau bước nhảy như con
khỉ từ ngôi mộ nầy đến ngôi mộ khác và rốt cuộc ra tới đầu ngõ hẻm trổ ra phố.
Thiên hạ cứ mỗi ngày một khôn
ra, cho nên, mặc dầu là cáo già, anh Sáu không còn gạt gẫm ai được nữa.
Anh buồn hiu trở lại đào viên
mà ba người bạn đã mặc lặng kết nghĩa với nhau hôm mấy tháng trước.
– Chị đỡ bớt hay chưa? Anh hỏi
bậy cho có chuyện.
– Có uống mẹ gì đâu mà đỡ bớt.
– Chị nghe trong mình làm sao?
– Không biết. Nhưng nếu ăn được
một chén cháo thì khỏe.
Anh Sáu hiểu ngay. Anh lại thở
ra, ngồi bó gối bên cạnh một người mà anh sẽ chịu đồng cảnh vài ngày nữa đây.
Sở dĩ anh còn đi đứng được là nhờ anh mạnh sức, lây lất nổi thêm vài ngày.
Chiều xuống sớm và mây kéo đen
nghịt trời. Ngoài kia vịt vào chuồng kêu cạp cạp.
Nghe tiếng vịt kêu, anh Sáu nhớ
lại người bạn thứ ba.
– Hừ, nó coi vậy mà nó đó.
Bỗng một ý nghĩ nảy ra. Anh vừa
mừng thì lại nghe như ai xát ớt trong ruột anh.
Nhưng biết làm sao: Đi ăn trộm
vịt, không đáng gì cả, mà rủi ro thì khổ. Trong lúc mình đang trốn mà dại gì
làm những chuyện xằng nho nhỏ.
Anh Sáu đứng lên nhảy bay qua
nhà anh, rồi ngồi nhìn mưa bắt đầu rơi lũm chũm trên mặt ao tù.
Một con nhái hay con gì không
rõ, nhảy xuống nước lội róc rách đi về đâu không biết.
Gió hú trong tiểu giáo đường,
gió than vãn ở các nhà mồ. Xa xa tiếng động cơ xe nổ lên, nhắc nhở rằng cuộc
sống ở bãi tha ma nầy thầm lặng quá!
Anh Sáu rút cây chĩa ba, lết ra
tới trước mả mà ngồi. Anh cúi mặt xuống miếng đất đọng nước, mắt lom lom rình.
Bỗng có tiếng sột soạt do con
chồn khua lau sậy, nay đã chết khô rồi. Anh Sáu hồi hộp nghe tim anh đập thình
thình trong lồng ngực anh. Lạ! Anh đã giết người, mà nhớ ra là anh đã không
nghe mảy may sợ hãi. Cớ sao đêm nay …
Kìa một cục đen đen thò ra khỏi
sàn ván. Anh Sáu cầm chĩa ba mà nhắm rồi sực một cái, mũi chĩa đâm chúi xuống
trúng ngay cổ con chồn. Chồn thét lên một tiếng kêu đau, kinh sợ, rồi thôi.
Trong bãi tha ma hoang vắng, không một tiếng vang lặp lại tiếng kêu thương của
con vật vừa bị bạn phản bội nầy.
Dân lưu manh vẫn thế. Họ cũng
biết xúc cảm, nhưng chỉ xúc cảm vậy vậy thôi. Họ nhỏ trên máu con chồn vài giọt
nước mắt rồi thịt nó liền mà không nghe nhờm răng.
Thế là đêm đó hai con chồn đói
xơi một con chồn no.
Họ chỉ ân hận một vài giây
thôi, vì dầu sao, người bạn xấu số ấy cũng chỉ là một con chồn. Ai dư nước mắt
mà khóc thú vật cho lâu!
Trời cứ mưa, mưa như cầm chĩnh
mà đổ, mưa như một oanh tạc cơ định về căn cứ, đổ rốc hết bao nhiêu bom còn sót
lại trên tàu, mưa cho hết ráo nước để rồi khô hạn được trong sáu tháng dài, mưa
đêm chưa phỉ lại mưa ngày, mưa cho đến xương kẻ dưới mồ chắc cũng lạnh thấu tủy
khô.
Ăn được bữa cháo chồn, hồ ly
nghe khỏe như chị đã đoán. Sáng hôm ấy chị ra đi, căn dặn anh Sáu ở nhà, chị sẽ
có tiền, một món tiền khá to, đâu như năm trăm, do một anh tình nhơn hứa biếu
và hẹn hôm ấy trao cho vì hôm trước là ngày lương.
Anh Sáu thích quá, muốn ôm lấy
hồ ly mà hôn một cái. Nhưng hồ ly dơ thấy mà bắt nôn, nên anh thôi.
Độ lối chín giờ sáng, anh Sáu
đang nằm ca sáu câu mùi mẫn:
Cảnh vị nhân sầu, xơ xác ngọn
vi lau, nước triều mênh mông chảy …
thì bỗng nghe tiếng tu hít thổi
hoen hoét ở cùng tứ phía, quanh nghĩa địa rồi giây lát sau hồ ly nhảy như khỉ
qua các nấm mồ, theo sau chị là hai người đàn ông còn trẻ.
– Trời ơi, anh Sáu kêu, mình đã
dại, kể cho nó nghe duyên cớ trốn tránh của mình; nó bán mình mà ăn đây! Chồn
ơi, hồn mi có thiêng chăng, về mà xem kẻ phản bội mi sắp bị trừng phạt đây.
Anh Sáu bó tay không chống cự.
Anh nhìn hồ ly, không oán giận mà chỉ tội nghiệp thôi. Hồ ly trốn cái nhìn của
anh, ngồi day mặt vô vách lá mà đếm tiền.
Đêm nay, gió sao mà hú ghê rợn
hơn đêm nào cả. Hồ ly giật nẩy mình, dáo dác nghe ngóng. Gì mà như anh Sáu ho
bên ấy! Chị đánh diêm lên để thắp nến. Trời ơi, mới hôm qua đây, anh Sáu còn
nằm bên đèn kể lại những bước phiêu lưu của anh! Hơi thở của anh, chị còn nghe
như văng vẳng. Cái mặt xương của anh đậm nét lên dưới ánh đèn, như là còn ẩn
hiện mơ hồ trên tấm mộ bia!
Trời ơi! Kéo cuộc đời nhơ nhớp
nầy biết đến bao giờ mới thôi? Đã nhơ nhớp lại đê hèn, bước từ phản bội này qua
phản bội khác cho đến một khi kia thì mình chỉ còn phản bội được chính mình.
Hồ ly rùn mình một cái, không
phải vì lạnh, cũng không phải vì sợ ma, mà vì chị bỗng sợ hãi chính mình, sợ
hãi con người đã vơi cạn hết chất người.
Chị ôm mặt khóc òa, rồi lẩm bẩm
van vái lầm thầm:
– Trời Phật ơi, Chúa ơi, tha
tội cho tôi, ngày mai tôi sẽ ra khỏi chốn nầy và ra khỏi vực đen của đời tôi
nữa!
Bình
Nguyên Lộc
Chú Thích của BNL:
(1) Nơi đây yên nghỉ: Ông An-Phông Tô Ma Nguyễn Văn Nở, thất lộc năm 78 tuổi. Hãy cầu nguyện cho ông.
(2) Ý nầy của P.S. và X.V.A
No comments:
Post a Comment