ÁO MỚI
Chiếc áo đầu tiên quý giá nhất trong gia đình tôi
là một chiếc “áo Vua ban.” Hồi ấy, ba tôi làm nghề cạo giấy và mẹ tôi buôn bán
theo lối tài tử. Bà làm nghề mách mối mua bán đồ cổ. Ngoài ra, bà còn vác máy
ảnh đi chụp cho các bà Hoàng, bà Chúa, bà Phi, bà Tần trong cung cấm.
Nghề mách mối đồ cổ là một nghề rất nhàn. Bà chỉ
việc diện bảnh, rẽ đường ngôi cho thẳng, bôi dầu dừa bóng loáng và thơm nức
lên; chiếc quần cũng được là thẳng và xếp thành nếp, gọi là “xếp con”, năm con,
bảy con gì đấy cho ra vẻ quý phái. Ăn mặc tề chỉnh như thế, bà chỉ việc đến nhà
các mệnh phụ, công nương, ngồi lê đôi mách một vài buổi. Thế là “mệ” nào muốn
bán cái gì, cụ nào muốn mua cái gì, mẹ tôi biết rõ cả. Bà chỉ việc vắt vẻo ngồi
lên chiếc xe tay nhà, chạy đi chạy lại một vài lần, là kẻ mua người bán đều vui
vẻ.
Nghề chụp ảnh mấy chục năm về trước còn là một nghề
rất mới mẻ, nhất là đối với các mệ, các bà Phi, Tần không thể ra ngoài phố tự
do như người thường. Mẹ tôi: được các bà hoan nghênh vô cùng. Phải, còn gì sung
sướng hơn một bà Phi, suốt mấy năm trời chàng hề được trông thấy “mặt Rồng” của
ông chồng Vua, bỗng dưng có một tấm ảnh mình ngồi chễm chệ trên một chiếc ghế
bành chạm trổ tinh vi, còn “Hoàng đế” thì đứng bên cạnh, quàng tay qua lưng
ghế, như ôm một cách âu yếm. Mẹ tôi rất tài về khoa ghép ảnh và tính giá rất
đắt. Nhưng, tiền có nghĩa gì đối với những cung phi suốt đời từ lúc tiến cung
cho đến già, đến chết, vẫn còn là trinh nữ! Tấm ảnh an ủi họ và thỏa mãn một
phần nào cái lòng tham hư vinh đã được nuôi dưỡng từ lúc bé thơ.
Trong số các khách hàng của mẹ tôi, có một bà mẹ
Vua. Vua thì còn bé, đang đi học xa. Bà ở nhà, sống một cuộc đời vương giả.
Suốt ngày, bà chỉ biết bài bạc với những người đến “bẩm chảu” (nịnh). Bà đã phá
kỷ lục về nợ nần, và bà chỉ có vay mà không có trả. Bà cho là mọi người ai cũng
có bổn phận phải cung phụng bà, đưa tiền cho bà tiêu xài. Nhưng bà không bao
giờ quên an ủi họ, khéo léo nói úp mở cho họ biết, ngày “Hoàng đế hồi loan,” bà
sẽ đền ơn trả nghĩa. Không biết mẹ tôi có bị bà cho vào tròng không, và nếu có,
thì chúng tôi, những ranh con, cũng không có quyền can thiệp.
Tôi còn nhớ, bốn chị em tôi có bốn cây kiềng vàng;
và bốn cây kiềng ấy có một con đường đi bất di bất dịch; từ nhà tôi đến nhà bà
Bộ, một bà nhà giàu chuyên cầm vàng bạc. Chúng nó đi “lữ hành” như thế, ít nhất
mỗi tháng độ mươi lần. Mỗi khi mẹ tôi xoay được món tiền, chuộc về nằm trong tủ
chưa được nóng chỗ, thì lại có lệnh “Ngài ban vay.” Và như thế, bốn chiếc kiềng
bé bỏng của chúng tôi lại lên đường đến nhà bà Bộ tạm trú. Bốn chiếc kiềng vàng
đi một con đường vòng độc nhất, còn số tiền cầm thì đi một con đường độc đạo,
và là một con đường cụt. Nó từ túi bà Bộ sang túi mẹ tôi, rồi nhảy sang túi
“Ngài” để rồi bị thủ tiêu mất tang mất tích không còn một chút dấu vết gì để
lại với đời.
Đã thế, thỉnh thoảng “Ngài” lại “ngự” đến “tệ xá”
của chúng tôi ở ngoại ô, mặc dầu “tệ xá” quả thực là quá tệ. Nó chỉ là một gian
nhà tranh bé nhỏ nằm lọt vào một bãi tha ma to lớn, cách xa thành phố đúng ba
cây số.
Ba mẹ tôi sở dĩ chọn nơi xa xôi như thế để xây
“biệt thự”, vì theo lời bác sĩ khuyên, ba tôi yếu phổi nên cần phải thở không
khí có gió thông trong lành. Ấy thế mà trong “tệ xá” có rầt nhiều đồ cổ quý
giá. Những món ấy toàn là của các công nương, mệnh phụ gửi, nhờ cầm bán hộ. Giấy
rách phải giữ lấy lề: dù mai không còn gạo để nấu cháo loáng, họ cũng vẫn giữ
bí mật, không bao giờ dám ra mặt tự cầm bán lấy đồ vật. Nhưng họ vẫn còn làm
điệu như thường:
– Đưa đây cho mệ hai xu, mệ “chém” một củ khoai
chơi mà!
Tuy cảnh túng của họ đã trầm trọng đến thế, mà bệnh
“khẩu khí” vẫn không hề thuyên giảm tí nào, và họ thấy cuộc sống vẫn không bớt
phần hấp dẫn, thú vị.
Đường đến nhà tôi, hai bên trồng toàn thông xanh và
phải trải qua hai cái dốc. Thỉnh thoảng, người ta lại thấy từ dưới dốc đằng xa
có một chiếc xe tay sơn son thếp vàng, một chú lính mặc áo đỏ, chân quấn xà cạp
vàng, đầu đội nón chóp, ì ạch kéo xe lên dốc. Sau xe có hai cô bé con độ mười
bốn mười lăm tuổi, mặc áo màu hỏa hoàng, đầu chịt khăn đồng màu, tóc xõa ngang
vai. Một cô tay cầm chiếc hộp trầu và cái ống nhổ bằng bạc; một cô tay cầm
chiếc quạt lông, lẽo đẽo chạy theo sau xe. Thỉnh thoảng, cô bé cầm quạt cố chạy
lên ngang hàng với chiếc xe, giơ chiếc quạt lông lên, phẩy nhẹ một cái vào
trong xe, rồi lại tụt dần xuống đằng sau. Ấy thế mà bọn họ từ cung cấm ra ngoài
thành, ngót bốn năm cây số để đến “tệ xá” đấy.
Sau khi đến nơi, “Ngài” chễm chệ leo lên chiếc sập
cẩn xà cừ đặt ngay chính giữa nhà, hai thể nữ đứng hầu hai bên, kẻ pha trà,
người quạt hầu. Ngài lần lượt ngắm nghía, thưởng thức các đồ vật trong “tệ xá”,
và cố nhiên khi “Ngài” rời gót ngọc, những món đồ cổ ấy cũng được mang theo
“Ngài” ngự, lên chiếc xe nhà sơn son thếp vàng có hai thể nữ chạy theo hầu ấy.
Trước khi bước chân lên xe, thế nào “Ngài” cũng
“ban truyền”:
– Chị Tham tính tất cả tiền những cái ché và độc
bình này đi. Cả cái táo lung cây vàng lá ngọc kia nữa, rồi ta sẽ trả tiền lại
cho. Còn cái sập cẩn này, chị cho ta mượn, mai ta cho thị vệ ra chở.
Mẹ tôi chỉ biết “Dạ” mà nuốt lệ. Bởi vì mẹ tôi
biết, đồ vật cũng như người, khi đã được “tiến cung” thì chỉ còn đợi chết! Mặc
dầu được sủng ái, số phận của đồ vật còn đen tối hơn các cung phi mỹ nữ bị lãnh
đạm. Các cung nhân, khi đã về già thì được thải hồi nguyên quán, còn những món
đồ cổ, càng già càng quí thêm, càng không mong gì được trả về với cố chủ.
Cứ mỗi khi như thế, ba tôi lại lẩm bẩm:
– “Thấy Vua” rõ thật là “thua vấy”!
Cuộc đời cứ thế trôi qua. Ba tôi ngày ngày đi cạo
giấy. Mẹ tôi bán đồ cổ và ghép ảnh cho các bà. Tiền kiếm được, dùng để nuôi
chúng tôi một số rất nhỏ, còn hầu hết để nuôi “Ngài”.
Một hôm, chắc lương tâm “Ngài” thức dậy – hay là
“Ngài” sợ nợ mẹ tôi nhiều quá, không trả bớt, đến kiếp sau sẽ thành ra “nợ
thiên khối” như trong kinh Phật dạy – “Ngài” bèn long trọng “tuyên dương
công trạng” mẹ tôi một hồi, rồi “thân tặng” cho mẹ tôi một chiếc ao cũ của ông
Vua con.
Đấy là một chiếc áo the đen, bên trong lót một lớp
hàng mỏng màu vàng. Chiếc áo còn thơm nức mùi xạ hương và long não ướp lâu
ngày.
Mẹ tôi đem chiếc áo ấy về, vênh vang như một kẻ “áo
gấm về làng.” Sự sung sướng của mẹ tôi, được cái áo vua ban ấy, cũng giống như
tâm trạng người cung phi trinh nữ, được tấm ảnh ghép ngồi chung với Đức Vua. Cả
hai cùng muốn mang một cái hão huyền ra để thỏa mãn lòng tự ái, lừa mình, lừa
người cho đỡ cơn ghiền!
Chiếc áo ấy về phần chị cả tôi. Mỗi năm vài lần,
trong những ngày kỵ giỗ, lễ Tết, cái “áo Vua ban” ấy được “trân trọng” trình
bày trên thân hình bé nhỏ của chị tôi một vài giờ, rồi lại được trân trọng xếp
vào rương chờ dịp khác.
Năm tháng qua; chị tôi mới đầu mặc chiếc áo còn
rộng thùng thình, rồi chật dần, ngắn dần cho đến khi không mặc vừa nữa, phải
cho chị Hai tôi thay thế.
Từ chị Cả cho đến chị Hai, chị Ba, anh Tư, anh Năm,
rồi đến chị Sáu, chiếc áo cứ được đem ra hóng gió mỗi năm một vài lần, cho đến
lượt tôi được xỏ tay. Hôm Tết, mẹ tôi mang chiếc áo lịch sử quý giá ấy ra để
mặc cho tôi và bảo: “Hoa ơi, cái áo này bây giờ về phần con” thì nó đã mục nát
và chỉ động đến là rã tan ra từng mảnh.
Cũng năm ấy, ông Vua nhỏ ngự giá hồi loan. Và từ
lúc ấy, “Ngài” ra lệnh không tiếp tất cả các chủ nợ của Ngài. Bây giờ, “Ngài”
đã thành ra một bậc cao sang nhất, không thể có chủ nợ, và lại càng không muốn
trông thấy người nào hiểu được hoàn cảnh của “Ngài” lúc còn hàn vi; thật là chí
lý, chí tình vậy! Còn gì khó chịu hơn một kẻ ở địa vị cao sang, ngày ngày phải
trông thấy đám chủ nợ mình ngày xưa, đám người mình từng năn nỉ khóc lóc kêu
túng thiếu, người phải cầm bán vay mượn cho mình tiêu xài. Đó là một sự nhục
nhã, một uy hiếp tinh thần, có thể làm mất bớt uy nghiêm nhiều lắm.
Tết năm ấy, tôi không có áo mặc, nên tôi khóc mùi
khóc mẫn cả một buổi sáng. Tôi chỉ tưởng là mình khóc vì khi chiếc áo đẹp đến
phần mình thì đã rách nát, nhưng thật ra, tôi đã khóc cho cái ảo ảnh “ân trả
nghĩa đền” của mẹ tôi bị tan vỡ. Tôi khóc cho cái chết của chiếc áo, đổi bằng
tất cả của cải mẹ tôi dành dụm được. Tôi khóc cho nền móng tương lai của môt
đám trẻ thơ, đáng lẽ được dùng của cải ấy để bồi đắp cho thể chất và tinh thần.
Nhưng sau đó, gia đình tôi ngày một khá. Lần đầu
tiên, chúng tôi được ăn một thứ thịt, nghe nói gọi là thịt bò. Bữa cơm hôm ấy,
ba tôi mất mười lăm phút để giảng giải cho chúng tôi nghe, bò là một con vật để
cho loài người ăn thịt.
Một hôm, không hiểu tại sao, mẹ tôi bỗng nhiên
“phát từ bi tâm” may cho chị Sáu, tôi, em Tám và em Chín, mỗi người một cái áo
xa-tanh màu phấn hồng. Xấp hàng này, có người tặng cho mẹ tôi trong dịp ăn đầy
tháng em thứ mười một. Chúng tôi mừng rỡ trông đợi một ngày trọng đại, ngày
được mặc chiếc áo hồng lộng lẫy, sặc sỡ, bóng loáng, mát rời rợi và rộng thùng
thình như áo tế ấy, thì bỗng dưng ông nội tôi chết. Tôi thấy ba mẹ tôi khóc,
anh chị tôi khóc, tôi cũng khóc. Nhưng thực ra, tôi không nhớ đã được thấy mặt
ông nội tôi hồi nào. Tôi khóc là khóc cho bốn chiếc áo xa-tanh hồng tươi rực
rỡ, chưa từng được diện qua một lần, vì phải để tang, đã bị mẹ tôi ngâm vào
nước thuốc nhuộm răng. Chúng nó biến thành một màu kỳ lạ, không vàng, không
lục, không xanh. Màu ấy, ba tôi gọi là “dưa cải úa mùa thu.” Nếu bây giờ bảo
tôi đặt tên lại, thì tôi sẽ gọi là một bức tranh lập thể may thành áo. Từng
vệt, từng đám, ngang dọc ngổn ngang, chồng chất lên nhau, níu kéo nhau, chằng
chịt. Cái áo nhuộm như thế đấy, mà chúng tôi vẫn phải khen cho mẹ tôi bằng
lòng. Bởi vì, đã có định luật rằng “thượng cấp” thì phải được “tỏ vẻ hài lòng”;
còn “hạ cấp” thì chỉ độc có một việc là “nhiệt liệt hoan hô,” dù có thích hay
không!
Chúng tôi phải chịu đựng cái xấu xí của áo, và áo
cũng phải cố chịu đựng sự tàn nhẫn vùi dập của chúng tôi. Chúng tôi mặc nó nằm
lăn dưới đất, mặc suốt ngày đêm, vò nát nó, ném nó từ góc này sang góc khác.
Đôi khi còn cắn nát chéo áo để xem cái mùi chua chua của nó, phải thật chỉ
chua, hay còn lẫn mùi gì nữa không.
Thật ra, số phận của những chiếc áo ấy cũng đáng
thương như chúng tôi, cũng giống như chúng tôi. Tâm hồn chúng tôi sớm đã bị
nhuộm thành một màu “dưa cải úa mùa thu,” hay cũng chỉ là một bức tranh lập thể
của những niềm đau khổ bé thơ, đã ai hơn gì ai đâu! Thế mà chúng tôi nỡ dằn vặt
chúng nó cho đến khi rách nát, và cùng lúc ấy, tang ông nội tôi cũng vừa mãn.
Một bà bạn gái của mẹ tôi ở Saigon gởi tặng mẹ tôi
một xấp hàng xa-tanh hồng khác. Mẹ tôi chê sặc sỡ chướng mắt, nên may cho bốn
chúng tôi. Bốn chiếc “áo tế” vừa dài vừa rộng, may xong được cất kỹ, đợi “ngày
lành tháng tốt” mới được đem ra diện. Thỉnh thoảng, tôi lén mở rương vuốt ve
cái áo một lúc. Tôi nâng nó lên, áp cái chất mịn màng mát rời rợi lên cằm, lên
má. Tôi ướm nó vào người, hít cái mùi thơm long não và mùi xạ hương từ trong áo
toát ra một cách say sưa. Cái “ngày lành tháng tốt” ấy không bao giờ đến, vì
bỗng nhiên chú tôi mất. Kể ra, thì đó là một cái tang nhỏ thôi, nhưng mẹ tôi
bắt chúng tôi để tang. Và một lần nữa, chúng tôi khóc cho chiếc áo đẹp lại phải
nhuộm thành một cái màu lem luốc không tên!
Ba tôi lúc ấy đã bắt đầu rảo bước trên con đường
rải toàn thẻ ngà, nôm na gọi là làm quan. Mẹ tôi không còn phải đi bán đồ cổ và
cũng không cần chụp ảnh cho ai nữa.
Chúng tôi, mỗi người được sắm một con heo để dành
tiền. Nhưng, những con heo ấy, hàng năm đều phải bị đập ra, vì mẹ tôi mở cuộc
“lạc quyên” để may áo quần cho bọn con trai tựu trường.
Cảm thông những nỗi khó khăn của các anh khi túng
thiếu, chúng tôi lúc nào cũng vui lòng “quyên”. Mẹ tôi bảo đấy cũng là làm việc
nghĩa, chẳng mất đi đâu mà thiệt, vì rồi đây, khi các anh mặc ngắn, những chiếc
áo ấy cũng sẽ đến phần chúng tôi.
Khi chiếc áo xa-tanh nhuộm mực lem luốc thứ hai
“quá cố” rồi, thì chúng tôi đã thành những cô gái dậy thì. Chúng tôi đã biết
thẹn, nhưng khi ra đường vẫn cứ phải mặc những chiếc áo vải dù, vải ba-ga con
trai đã bạc màu và rộng mênh mông như cả một trời đau khổ. Chúng tôi cố năn nỉ
xin may một cái áo mới cho ra hồn. Mẹ tôi bảo:
– Áo các anh mặc ngắn thiếu gì! Còn tốt và bền lắm;
may một lần tốn kém lắm, chứ tưởng rẻ sao! Ngày xưa, suốt đời mẹ chỉ có một
chiếc áo vải. Còn các con đã có bao nhiêu cái áo đẹp rồi, nhớ không? “Áo Vua
ban” này, áo xa-tanh nhuộm màu dưa cải này…
Tôi nhắc:
– “Dưa cải úa mùa thu” chứ!
– Ừ thì thu, đông gì cũng được. Lại còn cái áo
xa-tanh nhuộm màu mực này…
Tôi cải chính:
– Màu lem luốc chứ.
– Con Hoa thật nhiều chuyện! Mới may rồi, còn đòi
gì nữa!
Em Tám nói:
– Dạ, mới may bốn năm về trước!
Mẹ tôi mắng:
– Chúng mày rắc rối lắm, không biết hà tiện hà tặn,
sau hết phước đi! Phải nhớ, hồi xưa mẹ chỉ có một cái áo, nên mới có ngày nay!
Em Chín tiếp:
– Nhưng mà mẹ quên là mẹ con ông Huyện, và mồ côi;
còn chúng con là con ông Tổng đốc đương thời!
– Ai dạy cho mày ăn nói giảm phước thế?
– Mẹ không thương chúng con. Mẹ chỉ thương chị
Hồng. Mẹ nhớ chị Hồng mất ăn mất ngủ. Mỗi khi chị Hồng tới xin tiền là mẹ bổ
ống của chúng con…
Mẹ tôi vội vã:
– Thôi thôi, để tôi may, cô không cần phải kể con
cà, con kê…
Mẹ sợ chúng tôi phân bì với chị Hồng lắm. Mỗi tháng
chị đến thăm mẹ tôi một lần, và mỗi lần như thế là cả nhà náo loạn cả lên. Nội một
việc hầu hạ phục dịch chị cũng đủ cả nhà mệt phờ ra. Chị ăn tiêu rất rộng rãi,
thưởng tiền cho người nhà không hề tiếc. Đối với chúng tôi, chị cũng “thết đãi”
linh đình. Nghĩa là gọi cả một gánh bánh bèo hay bún bò vào nhà, thết mỗi người
một tô. Chỉ có một cái “di hận” là chị chuyên môn bổ ống của chúng tôi. Ba mẹ
cho chúng tôi một ống tiền đặc biệt, nói là dành làm của hồi môn. Nhưng từ khi
chị Hồng phát giác câu chuyện ấy, thì chị rủ mẹ cho chúng tôi hùn vào tiệm may
của chị. Mỗi tháng, chị đến bổ ống của chúng tôi một lần. Mãi cho đến khi chị
bán cửa tiệm đi lấy chồng, chúng tôi chẳng hề thấy chị thanh toán, làm tôi cứ
tưởng là cửa tiệm của chị ở nhầm hướng “tán tài” nên suốt bao nhiêu năm trời
chỉ chuyên môn lỗ. Và cái tính không bao giờ thanh toán ấy, chị vẫn giữ mãi
không bao giờ thanh toán.
Mẹ tôi quả nhiên giữ lời hứa, lấy một xấp hàng “xá
xị” màu vàng nhạt để tận đáy rương ra, may cho chúng tôi. Bà gọi người lính ở
trong dinh biết may cắt và căn dặn:
– May cho thật dài rộng mát mẻ nghe không!
Vì chúng tôi đã lớn, rất sợ những chiếc áo rộng
mênh mông, mặc vào như bơi đứng trong áo, nên nghe thế, phải dặn với:
– Ừ, may cho dài…
Và đứng sau lưng mẹ, lấy tay ra hiệu may chật.
Đến lúc áo may xong, mặc thử, thật là dở cười dở
khóc. Nó dài phết gót và chật như bó chả. Chật đến nỗi tay không co lại được.
Người tôi cứ cứng ra như khúc gỗ không cử động gì được trong chiếc áo đó. Chỉ
mấy tháng, chiếc áo mới đã phải vá cùi tay và tiếp thêm nách. Những dù vá víu
xấu xí đến đâu, tôi cũng mặc đi nhiều nơi, nó vẫn còn hơn chiếc áo vải ba-ga
đen cũ bạc màu của bọn con trai để lại.
Kế vị chiếc áo đấu tranh mà có này, là một cái áo
vải “cạt”. Gặp lúc chiến tranh, mọi vật đều phải phối cấp, hàng vải cũng thế.
Và chúng tôi được may một cái áo thứ vải “cạt” phối cấp xanh đỏ sặc sỡ lòe
loẹt, nhà quê một cách không thể tả được. Mặc nó vào, người ta cứ tưởng là một
tấm vải màn, hay cái ghế nằm sofa biết đi. Thế nhưng tôi vẫn phớt như
không. Coi như trên đời này không còn ai nữa!
Từ đấy về sau, mẹ tôi chẳng cần phải may áo mới cho
chúng tôi nữa, vì chị Hồng thỉnh thoảng lại gởi về một ít quần áo cũ cho chúng
tôi tiếp thu. Trong số quần áo cũ ấy, có hai cái còn mới nhất. Chị Sáu chọn cái
áo màu đỏ; tôi mặc vừa cái ao màu xanh. Hai chị em, mỗi khi đi phố, đi chợ, đều
diện hai cái áo đẹp nhất của mình, kệ cho thiên hạ, bạn bè chỉ trích. Nào là
màu sắc chửi nhau; nào là “người trong tranh”; nào là bất chấp thời tiết v.v…
Chúng tôi giữ vững lập trường “mục trung vô nhân” và cũng không cần biết đến cả
Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Kể từ ngày mẹ giao tiền chợ cho chị Sáu giữ, chị
không còn khổ tâm về áo quần nữa. Chị tự sắm cho chị rất nhiều áo quần đẹp,
nhưng lại cứ nói dối là của bạn bè, bà con ở xa gởi về cho, thành ra mẹ không
rầy được, mà chúng tôi cũng không thể phân bì được. Tôi trông mong chị cao lớn
thêm lên, hay béo ra một chút, để rơi rớt cho tôi vài cái. Nhưng rủi quá, người
chị bé nhỏ, lùn thấp hơn tôi nhiều, và lòng dạ chị lại sắt đá nữa, nên tôi
không hề gạ gẫm gì được cả.
***
Tôi biết rõ tính mẹ tôi, có tiền chỉ để cho người
khác tiêu dùng một cách phí phạm, còn mình và con cái phải hết sức kham khổ. Có
lẽ mẹ tôi cũng chẳng có cái áo nào ra hồn. Sau này, lúc tôi bị ném ra ngoài
đời, tranh đấu cho cuộc sống của mình, tôi cố dành dụm ít tiền. Mỗi lần cuối
năm, tôi mua gửi cho mẹ tôi mười cái áo gấm Thượng Hải. Tôi nghĩ rằng trong
mười áo ấy, bà sẽ cho, tặng, bán hay gì đi nữa, nhiều lắm là chín cái thôi. Ít
nhất cũng phải để lại một cái tự may cho mình. Và như thế là tôi thỏa mãn rồi.
Ngày mẹ tôi bị bệnh trầm trọng, tôi ở xa về, cũng không quên mang theo mười áo
gấm nữa cho mẹ tôi. Lúc mẹ tôi mất, tôi soát lại tủ áo để tìm đồ liệm theo, thì
thấy chẳng có một chiếc áo nào may bằng thứ gấm Thượng Hải tôi đã gởi về biếu
mẹ.
***
Một người bạn trẻ nói với tôi:
– Chị Hoa, cuộc đời chị thế là hết rồi! Không còn
hy vọng gì nữa hết! Không còn tương lai gì nữa hết! Không còn mơ gì được nữa
hết!
Hừ, láo đến thế thì thôi! Hắn biết tôi thất bại về
hôn nhân; tôi về nước vì mẹ, mà đến nơi thì mẹ mất; đúng là một sự thất vọng
lớn lao. Nhưng đâu đã đến nỗi không còn gì để mơ!
Sau khi chôn mẹ bên cạnh mộ cha xong, tôi trở lại
Hương Cảng làm việc. Và từ bấy giờ, dù có thừa tiền để sắm nhiều quần áo đẹp,
tôi cũng không còn thấy hứng thú gì nữa, không làm sao còn cái cảm giác say mê
nồng nàn như khi len lén mở rương vuốt ve cái áo xa-tanh hồng đầu tiên, thuở
mười hai.
Tôi còn nhớ, sau ngày ông nội tôi mất, ba tôi
thường hay nhắc đi nhắc lại mãi với chúng tôi:
– Khi con cái còn nhớ dai, chúng nó chưa đủ hiểu
nên hay oan trách cha mẹ cấm đoán điều này điều nọ. Lúc lớn lên, có gia đình,
sinh con rồi mới hiểu lòng cha mẹ; lúc ấy muốn báo ân cho kẻ sinh dưỡng mình,
thì cha mẹ đã không còn ở trên đời nữa!
Ba tôi mỗi lần nói thế, bao giờ cũng không dằn được
hai giọt nước mắt rưng rưng.
Còn tôi, sau này mỗi lúc đi phố, nhìn những hàng
gấm màu sắc u nhã, dệt hoa Long, Phụng hay chữ Phúc, chữ Thọ rất đẹp, tôi lại
như người lên cơn say, cố mua cho bằng được. Nhưng sau khi mua rồi, mới ngẩn
người ra, chợt nhớ mẹ còn đâu, mua áo gấm để gởi cho ai!
Linh Bảo
Nhà văn Linh
Bảo tên thật Võ thị Diệu Viên, sinh 14 tháng 4, 1926 trong một gia đình quan
lại triều đình Huế: Cha, Võ Chuẩn, nguyên Tổng đốc Quảng Nam; Mẹ, gốc hoàng
tộc, Tôn Nữ Thị Lịch.
Năm 1951,
Linh Bảo lập gia đình với một người Hoa mang quốc tịch Anh, và trở thành công
dân Anh do cuộc hôn nhân này. Đến 1954 bà được tuyển làm nhân viên của Toà Lãnh
sự Việt Nam tại Hương Cảng. Năm 1957 bà trở về nước, và chỉ sau 2 năm, 1959
Linh Bảo lại chọn một cuộc sống xa quê nhà.
Linh Bảo dạy
Việt ngữ trường Sinh ngữ Quân đội, Monterey, California, Hoa Kỳ từ năm 1962 cho
đến cuối năm 1976. Hiện bà cư ngụ tại thành phố Westminster. Bà được trao giải
Văn học Nghệ thuật Toàn quốc VNCH năm 1961 với truyện dài Tầu Ngựa Cũ.
TÁC PHẨM:
•
Gió Bấc (truyện dài, Phượng Giang 1953)
•
Chiếc Áo Nhung Lam (sách Hồng, Đời Nay 1953)
•
Tầu Ngựa Cũ (tập truyện ngắn, Đời Nay 1961)
•
Những Đêm Mưa (truyện dài, Đời Nay 1961)
•
Con Chồn Tinh Quái (truyện nhi đồng, Ngày Mới 1967)
•
Những Cánh Diều (tập truyện ngắn, Trí Đăng 1971)
•
Mây Tần (tuyển tập đoản văn, Việt Nam Hải ngoại 1981)
Kính mời quý
độc giả đọc lại truyện ngắn “Áo Mới” của nhà văn Linh Bảo. Truyện ngắn này với
bản dịch tiếng Anh của bà Thanh Long, cùng với truyện ngắn “Người Quân Tử” đã
được đưa đi dự thi ở Luân Đôn, Anh quốc vào năm 1961. Kết quả cả hai truyện
cùng được tuyển chọn là một trong 26 truyện ngắn hay nhất thế giới.
304Đen – Llttm - dsc
No comments:
Post a Comment