Một
Câu Chuyện Thương Tâm
(Dân tôi sao khổ thế này. Trời cao có thấu)
Tôi Nguyễn
Văn Đề, sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao xấu nhất của bầu trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại
phải sinh sống trong một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất cày lên sỏi đá.
Tôi chưa bao giờ
được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy, tôi được một nhà phú hộ mướn chăn dê.
Với đàn dê 40 con, hằng
ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá từ sáng sớm tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê gặm
cỏ. Chiều đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ đơn thuần như thế. Còn việc
trả công, tôi không hề hay biết.
Đó là việc
của người lớn:
– Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.
Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự tìm thức ăn.
Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau với một ít muối
ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa hàng ngày của tôi.
Tôi chưa bao giờ
biết ăn sáng hay lót lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm cũng chỉ có muối
ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một con cá lép khô muối
mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi đã hoan hỉ lắm rồi.
Ngồi ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ
của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.
Đời
tôi bắt
đầu sáng
lạn hơn thằng chăn dê rồi đó! Tôi được
dạy cho biết cách
sử dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một”
(Carbin M1) là
‘người tình’
đi theo tôi trong suốt quãng đời
lính
tráng này.
Tôi được
phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời
và lớn
lên
trong đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi
là
‘tiểu đội thám báo’.
Nói ‘thám báo’ cho
oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của
tiểu đội là
ban ngày canh gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu
đội thường xuyên
di chuyển từ địa điểm này đến
địa hình
khác với mục đích tránh sự dòm ngó, quan sát theo
dõi của địch, để khỏi bị tấn công sát hại.
Tuy tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó là ‘phục kích đêm’ để phá vỡ
đường dây liên lạc của Việt Cộng.
Vào đầu tháng tư năm 1975,
tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy nói là ẩn núp, ngụy
trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song chúng tôi cũng phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện địch, chúng tôi cố ý ẩn nấp để tránh giao tranh và
sáng hôm sau sẽ báo cáo để
thỉnh thị quyết định của thượng cấp.
Nào ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm tận cùng của tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi rình mò về thôn xóm để nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào ổ
phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh ta ngủ gà ngủ
gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh giấc anh thấy một bóng đen xuất
hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật mình, anh Cường nổ súng bắn một băng tiểu liên và tên du kích
ngã gục sau phát đạn khai hỏa đầu tiên của anh ta.
Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rõ tên du kích là một người dân trong xã vừa thoát ly gia đình
theo Việt
Cộng, khoảng vài tháng trước. Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên lạc viên cho đám du
kích.
Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xã để cho thân nhân anh ta nhận xác về chôn cất.
Đây là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên ‘thám báo’ của chúng tôi.
Lẽ dĩ
nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm gì có phương
tiện tải thương để chuyên chở tử
thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương Quân.Vì thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi mưa cá
nhân, kết
hợp làm băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xã.
Chúng tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch khiêng cái xác từ bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xã, chúng tôi được lệnh của anh trung đội trưởng cho đặt tử thi
trước trụ sở Xã.
Rủi
ro cho tôi
khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người
bạn khiêng
phía sau vừa bảo tôi vừa
thả buông
băng ca xuống:
– Đặt xác nó tại đây đi!
Anh bạn
vừa thả băng ca thì trời bất chợt đổ cơn mưa rào. Tôi đem lòng thương hại kẻ xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi
xác tử thi vào thẳng trong chợ để xác khỏi bị…mưa ướt.
Đó là lòng nhân từ
của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như thế. Tôi vừa
đặt tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập
thình
thịch vào
lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa om sòm:
– “Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết
chồng tao!!” rồi lôi xác xềnh
xệch như lôi
kéo một con chó. “Trời ơi là trời!”
Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn
răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần giải thích cặn kẽ cho bà ấy.
Một tháng sau, tháng tư
đen năm 1975, đổ
sụp về, tất cả các sĩ quan từ thiếu úy trở lên phải trình diện học tập cải tạo tại các trại
tập trung lao động khổ sai.
Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa phương 20 ngày thì được
cho về sinh hoạt với gia đình. Riêng tôi lại bị vợ của tên du kích, nay
là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên Chính Trị Xã, ra lệnh chuyển tôi từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn với tội
danh:
Thành phần ác ôn, nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân…
Những
ngày đầu
ở Lam Sơn, tôi cố
tìm
các anh em nghĩa quân khác mà tôi quen biết. Tôi đã không tìm thấy
bất cứ ai, kể cả anh Cường, người Nghĩa Quân đã bắn
chết anh du kích.
Các ông trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, tôi cũng chẳng
thấy ông
nào. Thậm chí ngay cả
các
anh ‘linh áo đen’ đã đi phục kích đêm hôm đó, cũng
chẳng có
ai!
Tôi bị
phân bổ
vào
nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ
có một
mình
tôi là Nghĩa Quân Viên.
Những
ngày đầu,
các
ông thiếu úy cũng quá đỗi
ngạc nhiên
và hỏi tôi:
– Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại trình diện vào đây để ngồi tù?! Ủa, mày muốn tình nguyện học tập hả?
Có người
thì
nói ôn tồn, thương hại. Có ông thì nhìn tôi
sòng sọc, gặng hỏi:
– Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?
Tuy bị
hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn,
nhã nhặn
trả lời:
– Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!
Dù sao đi nữa,
đời tôi cũng đã thăng hoa lắm rồi.
Ngày xưa, có bao giờ
tôi
được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan trẻ này đâu. Thiếu
úy,
ít ra các ông ấy cũng là trưởng
ban, trưởng phòng,
cuộc trưởng … gì đó trong chi khu,
nên lúc nào tôi cũng kính nể, tôn trọng
các vị
sĩ quan ấy.
Lao động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.
Tôi lại
bị dồn vào ở
tù
chung với trung úy và đại
úy.
Đời tôi
sao được thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị
chuyển ra trại Củng Sơn, Phú Yên. Khoảng 3 năm có rất
nhiều trung úy
và đại úy lần
lượt ra về. Trại lại nhốt chung tôi với các ông thiếu
tá mà
ngày xưa tôi chưa bao giờ dám xuất
hiện gần các vị
ấy vì
các ông này ít ra cũng là các cấp chỉ huy của đại úy Quận
Trưởng kiêm
Chi Khu Trưởng của tôi. Đời
tôi lại
thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được
sống gần các vị
thiếu tá,
tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy
hiền, đạo đức, xem tôi như em út trong trại
tù.
Sau đó, chúng tôi lại
bị dời về A.30. Ở tù hơn 5 năm, hầu
hết ai ai cũng được về đoàn tụ với gia đình. Cá nhân tôi lại
được thăng cấp ở chung với một đại tá và 12 người
tù
chính trị khác mà trại
gọi là ác
ôn, có nhiều nợ máu với
nhân
dân. Đời
tôi
tuy thăng hoa, thăng cấp nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu
thì ngày về lại càng xa tít mù khơi bấy
nhiêu.
Tôi hết trông
mong có ngày trở về gặp lại vợ con.
À, mà tôi quên kể
cho quý vị nghe về gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi…
Năm 18 tuổi
tôi
cũng đã lập gia đình với
con Nại. Cô
gái này nhà cũng nghèo, cũng được phú hộ
mướn chăn dê
như tôi. Cả hai chúng tôi thường
xuyên gặp
nhau ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết
trời xuôi đất
khiến thế nào
khi tôi gia nhập ‘quân áo đen’ dưới
‘cờ vàng
ba sọc đỏ’ thì Nại cũng vừa lớn, nó mắc
cỡ không
chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi thấy
nó
siêng năng, hiền lành như búp măng bụ
bẫm nên mẹ
tôi
đem Nại về và nó
trở thành
vợ tôi hồi
nào
tôi cũng chẳng hay biết gì!
Vợ
chồng quê rất
đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lãng mạn
để trao cho nhau làm gì cho mất thì giờ.
Tôi cũng không nhớ
rõ,
cái đêm động phòng hoa chúc ấy
… ra
làm
sao..Tôi đã nói với Nại những gì… âu yếm
Nại như thế nào..nhưng
sáng ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong vòng tay tôi. Tôi biết
ngay, bây
giờ tôi
đã có vợ. Gần một năm sau, Nại cho tôi hai đứa
con trai sinh đôi rất khoẻ mạnh. Một năm
sau, Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn dê, nay là người
mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được
hưởng phụ cấp gia đình như anh em Chủ
Lực Quân
và Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ
được lãnh
lương 1.200 đồng mà phải
nuôi
sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù, Nại một mình nuôi cha mẹ
già
tôi và bốn đứa con thật vất vả.
Suốt
thời gian tôi bị
tù, Nại
thăm nuôi tôi
được 3 lần: lần đầu khi tôi mới bước chân vào trại
Lam Sơn, lần thứ nhì tại trại A.30. Hồi đó, trại
cho tôi
được ngủ đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại
sinh thêm đứa
thứ năm.
Lần thứ ba, khi được báo có người nhà thăm nuôi, tôi
vội vàng ra cổng trại thì được biết một thảm kịch đã xảy
ra lôi thôi cho gia đình tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi
thăm nuôi chồng
bị lật và có hai người chết, trong đó có Nại.
Xác Nại vì không có thân nhân nhận nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại
ven rừng.
Và năm đứa con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa
phương của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao cho tôi.
Nại
chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh tráng, một
ít mắm
ruốc kho…
Năm đứa con, ngồi khóc vì không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào trại để ở tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.
Nại
chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy hai
tuổi. Lúc đầu
sáu
cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ.
Anh em bớt phần ăn ít ỏi của chính mình, chia sớt
cho tôi để
nuôi
năm đứa nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi một
cái lều
tranh cũng trong khuôn viên của trại tù và cấp
ba tháng
thực phẩm đầu tiên để tôi tự
túc
nuôi con sau này.
Cảnh
gà trống nuôi con. Tình cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc đời dở khóc dở
cười.
Một
thời gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng xuống nhiều, song
hình ảnh
của Nại vẫn còn lắng
đọng trong tâm
trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng khoai,
trồng mì.
Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ giúp công việc
lắt nhắt. Còn lại
một đứa sáu
tuổi ở nhà
trông em hai tuổi. Tối đến tôi bắt
các
con đi ngủ sớm. Tôi đã mất
hẳn sự trầm tĩnh và muốn bỏ cuộc. Ban đêm, năm đứa
co rúm lại
trong một cái mềm
rách
trùm kín đầu ở một xó lều
như muốn tránh
những âm
thanh dị kỳ, thét gào của
gió
mưa bên ngoài. Tuy làm lụng rất vất vả nhưng
hoa màu
thu hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn
con Thanh đi đào
mì và hái bắp trộm của trại về cho bầy
con ăn thêm để
tránh
cái đói đang hành hạ chúng.
Nào ngờ
một đêm,
tôi giật mình
thức giấc thì thấy vắng mặt con Thanh
- đứa con gái đầu
lòng
mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm
bắp.
Tôi nhìn ra ngoài, bầu
trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét…
Tôi nghi ngờ
là
con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội
vã
lách mưa đi tìm Thanh.
Sau một
hồi tìm
kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng
thấy nó ở
đâu.
Trời
tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn
tiếng kêu của
tôi:
“Thanh! Thanh! Con ở đâu?”
Nhưng tiếng
kêu của
tôi bị
mưa gào,
gió cuốn mất hút trong không gian vô tận.
Một chặp lâu
sau, tôi nghĩ chắc giờ này con Thanh cũng đã về
nhà rồi
nên
tôi trở về. Quần áo xài xạc, nhưng con Thanh
vẫn chưa về nhà.
Đánh thức
bốn đứa con, tôi gặng
hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các con chỉ
ngơ ngác
không biết chuyện gì đang xảy
ra.
Tôi bảo
các
con đi ngủ tiếp và một
mình
ngồi chờ con Thanh về.
Một
chặp lâu
sau, tôi nghe tiếng súng bắn
inh tai… Không biết
chuyện gì đã
xảy ra thì khoảng nửa giờ sau, có tiếng
la hét,
hối hả của các ông cán bộ đang đứng giữa nhà.
– Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi tuần tra, tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đã bắn chết nó rồi… Khẩn trương theo tụi tao nhận xác nó về.
Điếng
cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay
chân,
tôi vội chạy theo họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết
thê thảm
bên
vũng máu.
Quanh bụng
nó cột
một sợi giây
và nhét quanh mình chừng mười trái bắp
và
hai củ khoai mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng
nó
còn đang nhai mấy hột bắp non. Do đó, tôi biết
ban đêm
vì đói, con Thanh ngủ không được
nên
lén tôi đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ
bị bắn chết thê thảm
như vậy.
Sáng hôm sau, tôi chôn
Thanh mà lòng buồn rũ rượi. Tôi không còn một
chỗ nào
trong tâm trí để căm thù. Ngôi mộ
của Thanh nằm ngay trong mảnh đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở
cửa mả cho Thanh bằng hai trái bắp và hai củ
khoai mì đã
đổi sinh mạng của nó.
Suốt
đời Thanh là một
chuỗi ngày
dài bất hạnh vì thiếu tình thương của
cha, trong đói
nghèo cơ cực của mẹ, và chết
trong đói
khát của cảnh tù đày mà trẻ thơ mới có bảy
tuổi đã phải
nằm tù, gỡ
lịch từng ngày với
cha. Thanh chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh
xã hội
đã hất
hủi, không
thương yêu nó.
Ngay cả
trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa
Phương Quân
được lãnh
phụ cấp gia đình, nên vợ con lính ai ai cũng đủ
cơm ăn, áo mặc.
Còn vợ
con của ‘quân áo đen’ thì đi chân đất, đầu trần, quần áo tả
tơi không
một cấp lãnh đạo nào thèm quan tâm đến.
Hồi đó, anh em Nghĩa
Quân chúng tôi cũng thuộc
Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại phân biệt đối xử với anh em chúng tôi như thế?!
Sau
1975, tôi
cũng bị ghép
vào ‘ngụy quân’, cũng bị
tù, bị
hành
hạ như các
anh em khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’
không
biết phân
biệt hành
xử để ‘quân áo đen’ như tôi không bị
dẫn con vào
trại tù và
bị chết thảm như vậy?!
Bảy
ngày
sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng
một giờ khuya, khi tôi đang ngồi buồn và nghĩ đến
hoàn cảnh
của gia đình
và cái chết thê thảm
của con Thanh …
Mưa
đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe tiếng
khóc của
con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, não nuột.
Tôi mở
cánh
cửa sổ bằng liếp tre nhìn ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi
ào ạt.
Dưới gốc một thân cây chồi, ngay chỗ chôn con Thanh, một
vệt trắng hiện lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh
ngắt. Tôi cố
nhìn kỹ
thì ra
đó là hình dáng của con Thanh.. Nó đang đứng
trước mộ, khóc
sướt mướt. Quanh lưng cũng đang buột một sợi dây và treo tòn ten vài
trái bắp như lúc tôi nhận xác nó về.
Tôi mất
bình
tĩnh và khóc nấc lên từng
cơn. Có
bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa
con gái
sanh đôi với con Thanh, hai chị em giống
như hai giọt nước. Con Nhàn đã đứng sau lưng tôi tự
hồi nào.
Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất
cả các
con tôi đều thức dậy đang ở chung quanh
tôi.
Ngoài trời đang mưa. Con Thanh vẫn còn đứng
đó,
nó khóc ngậm ngùi. Tôi hoảng
hốt vừa nói với
các
con tôi :
”Để
cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa
đẩy tấm liếp; con Nhàn cũng chạy theo.
Nhưng
khi ra đến mả thì hình dáng con Thanh không còn nữa.
Tôi
ngơ ngác không biết chuyện gì đã xảy
ra nhưng tôi vẫn
còn
bình tĩnh và biết ngay rằng con Thanh đang bị
chết oan, chết lạnh và chết đói trong nỗi
oan ức mà
linh hồn của nó cũng chẳng có nơi nương tựa.
Không
biết nghĩ sao tôi vừa khóc vừa
vái
trước mộ nó:
“Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ luộc bắp cho con ăn.”
Sau
đó
tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể
tôi
đã bồng con Thanh.
Vào nhà, tôi lấy
một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn
thanh tre, chôn
dưới đất làm bốn chân bàn để
làm tạm
bàn
thờ cho con Thanh.
Trong
khi đó,
con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp
đẹt làm
thức ăn cúng
cho con Thanh.
Tôi thấy
trên
bàn không có nước, tôi bảo
con Nhàn lấy
ly rót
nước cúng
con Thanh.
Nhàn đi qua đi lại
trong cái
nhà tranh như đang tìm kiếm vật gì? Sau đó nó lấy
một cái
gáo dừa đưa lên hỏi tôi:
“Ba ơi! Nhà không có ly, mình dùng cái chén này rót nước cúng chị Thanh được không ba?”
Nước
mắt lưng tròng,
tôi khẽ gật đầu.
Thế
cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của
Thanh vừa lạy vừa khóc nức nở với tất cả lòng yêu thương người
chị.
Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức tưởi để lại năm đứa con cho
tôi.. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa có cơ hội lập một cái bàn thờ cho Nại. Tôi vội tìm trong mớ giấy tờ có cái chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng vuốt hình vợ mình trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt hình của Nại lên miếng gỗ mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và Thanh trên một
manh gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo còn sót lại.
Từ
hôm
đó, Thanh cũng không về khóc nữa.
Nó
cũng biết an phận trong cảnh lưu đày của
một chế độ mà
người bóc lột
người… Thỉnh
thoảng tôi vẫn
có những
đêm
ác mộng:
“Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng
chất, máu me lênh láng còn Thanh thì đang nằm sóng soài trên một vũng máu mà miệng vẫn còn nhai ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt bắp sống.
304Đen – llttm -vhvn
No comments:
Post a Comment