Sunday, August 23, 2020

Lời Tâm Sự Của Một Nhân Chứng - Vũ Thư Hiên


Lời tâm sự của một nhân chứng

Nói chuyện với các nhà văn Đức tại thành phố Nuremberg, 2.2000

 
 
 
 

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố độc lập năm 1945 khi đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc. Cùng với sự tuyên xưng độc lập, chế độ kiểm duyệt thời thuộc Pháp chính thức bị bãi bỏ.

Nhưng chẳng bao lâu sau, những tờ báo thuộc các xu hướng không làm vừa lòng nhà cầm quyền mới lần lượt bị đóng cửa bằng nhiều cách, kể cả những cách hoàn toàn không dân chủ chút nào – phong toả trụ sở, tịch thu báo, cấm bán, cấm tồn trữ…

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chỉ có vài tờ báo ở chiến khu làm nhiệm vụ tuyên truyền cổ động nhân dân đánh giặc. Thiếu giấy, thiếu phương tiện in, nhưng chúng đã làm tốt nhiệm vụ của mình. Trong kháng chiến, việc kiểm duyệt không được đặt ra.

Sau năm 1954, khi Hà Nội trở về tay những người chiến thắng, số tờ báo còn lại trong vùng quân đội Pháp chiếm đóng được phép tồn tại èo uột thêm một thời gian ngắn. Sau, chúng bị chuyển thành những tờ báo của các tổ chức công quyền. Năm 1956, tờ báo tư nhân cuối cùng là tờ Nhân Văn, vừa mới ra liền bị đóng cửa, nhiều người làm văn làm báo bị đưa ra toà, bị đi tù hoặc đi cải tạo lao động. Có thể nói, đó là năm cuối cùng của cái gọi là “tự do báo chí”, kể cả tự do ở trên giấy.

Năm 1967, tôi chính thức bước vào nghề báo, làm phóng viên kiêm biên tập viên cho một tờ báo tên là Báo Ảnh Việt Nam. Tờ báo này trực thuộc Uỷ ban Đối ngoại Trung ương. Tờ báo này chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là giới thiệu, tuyên truyền cho nước Việt Nam cộng sản. Vào thập niên 60, thế giới cộng sản chia làm hai phe: phe theo đường lối của Liên Xô (cũ) gọi là phe “xét lại”; phe theo đường lối Trung Quốc gọi là phe “giáo điều” (theo cách người trong hai phe gọi nhau). Do chức năng của nó, những người làm báo ảnh sống khá yên ổn. Báo in ảnh nhiều, chữ ít, bài vở được duyệt cẩn thận, trước hết là ở phòng, ban, sau đến thư ký toà soạn, chủ nhiệm, nên hiện tượng “mất lập trường”, sai “quan điểm” hầu như không có. Tuy nhiên, trong phong trào “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại” dâng cao, thỉnh thoảng lại có sự phát động những cuộc rà soát từng câu từng chữ trong các bài đã in để “phát hiện” những “phần tử xét lại” trong hàng ngũ. Nói khá yên ổn chỉ có nghĩa như vậy. Kể lại những tình tiết trong các vụ rà soát này cần phải có nhiều thời gian. Người nghe kể thể nào cũng nghi ngờ tính chân thực của câu chuyện – nó giống chuyện tiếu lâm. Người trong cuộc thì không có cơ hội để cười – ai cũng có thừa cơ hội để lo lắng. Người bị nghi ngờ là “phần tử xét lại”, hoặc “có tư tưởng xét lại” chắc chắn sẽ phải chịu những hình phạt mà không ai có thể đoán trước nó sẽ là thế nào. Nhẹ thì bị đưa ra khỏi biên chế, tức là đuổi việc, nặng thì có thể bị đưa đến những nơi không ai muốn đến.

Tôi không may mắn bị bị rơi vào số người bị nghi ngờ, trước hết là do những phát biểu của mình trong những cuộc họp tôi đã không ca ngợi tư tưởng Mao Trạch Đông như những người khác. Ấy là chưa kể tôi còn có những lời châm biếm “người cầm lái vĩ đại”. Việc ca ngợi Mao Trạch Đông trong thời kỳ này được coi như lời khẳng định lập trường mác xít – lê-nin-nít chân chính trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống “chủ nghĩa xét lại”.

Cộng vào đấy, tôi là kẻ có tì vết. Một truyện ngắn của tôi được đăng trên tờ Văn Học mấy năm trước bị vị lãnh tụ văn nghệ lên án trong bài viết “Nâng cao lập trường tính đảng, chống chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ” của ông ta. Ai đã sống qua thời ấy mới hiểu tầm quan trọng của bài phê bình ấy, chỉ cần đọc cái đầu đề. Tôi lại có quan hệ bè bạn với những người bị coi là “phần tử xét lại”, có tên trong “sổ đen”. “Sổ đen” tuy nằm trong két sắt của các cơ quan trấn áp, nhưng nó là một thứ secret de Polichinelle, ai cũng biết. Cuộc “đấu tranh tư tưởng” kéo dài nhiều năm, trong bầu không khí nặng nề, đầy đe doạ. Ở nước láng giềng phương Bắc những kẻ như tôi chắc đã ở trong tù, hoặc tệ hơn, đã mất mạng.

Tôi ngây thơ nghĩ rằng ở nước tôi tình hình không đến nỗi như thế. Nhưng tôi đã lầm.

Cuối năm 1967, một cuộc bắt bớ rộng rãi, “một mẻ lưới” theo cách gọi của đảng cầm quyền, được thực hiện.

Tôi bị bắt cóc giữa đường và đưa thẳng vào nhà tù, nơi cha tôi đã ở qua nhiều lần trong cuộc đời hoạt động giành độc lập cho đất nước của ông. Gần nửa năm sau vợ tôi mới được cơ quan thông báo tôi đã bị bắt. Trước đó, gia đình tôi chỉ biết tôi đã mất tích. Trong đợt càn quét này số cán bộ ở các cơ quan trung ương bị bắt khoảng gần 40 người, theo tôi tính nhẩm. Con số chính thức chỉ có công an biết. Ở các tỉnh, trong phong trào thi đua “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”, số người bị bắt nghe nói còn đông hơn, trong đó có nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng gần đây Chuyện Kể Năm 2000. Tất cả những người bị bắt giam trong “vụ án của tôi” đều là những người lương thiện. Họ chỉ có một cái tội, ấy là dám nghĩ bằng cái đầu của mình, dám nói ra những ý nghĩ của mình.

Sự bắt bớ tràn lan trong cơn lên đồng tập thể này còn thâu tóm vào nó rất nhiều người không vì một lý do chính đáng nào. Trong tù, tôi gặp mấy dị bản “xét lại” kỳ quặc. Một sinh viên đi học ở Hungary, anh ta rơi vào tù vì yêu một cô gái Hung. Hungari là một nước “xét lại”, cô ta ắt cũng là “xét lại”, yêu cô ta thì cũng là “xét lại”. Một tên “xét lại” khác, một trí thức đi tù vì biết tiếng Anh, nhờ biết tiếng Anh, anh ta quen mấynhà ngoại giao Ai Cập và Nam Dương mời tới nhà uống rượu. Những người Ai Cập và Nam Dương hiển nhiên nằm trong phe cái gọi là “phe đế quốc”.

Cùng với cuộc bắt bớ này, cái “vô sản chuyên chính” của những lãnh tụ hoàn toàn được khẳng định. Mặt nạ dân chủ không còn cần thiết nữa, không cần dùng tới nữa. Thay vào đó là cái khác mang tên “dân chủ tập trung”cho đến nay vẫn còn làm tốn rất nhiều giấy mực. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã lột xác hoàn toàn để khoác áo mới “cách mạng vô sản”.

Tôi đã ở qua bốn nhà tù, trong số đó có ba nhà tù tôi bị giam trong xà lim một người. Đó là một căn phòng ẩm ướt, thiếu ánh sáng và không khí, đủ chỗ cho bốn cái quan tài. Tôi không được phép đọc dù chỉ một mẩu giấy có chữ in – người ta đã bóc hết giấy bọc quà của gia đình được phép gửi cho thân nhân bị tù.

Lần đầu tiên tôi sau bốn năm tù tôi đọc mấy mẩu báo đã hết thời gian tính dùng để gói thức ăn của thân nhân tù gửi cho người nhà trong trại. Ấy là khi tôi đã được đưa từ xà lim ra trại chung, nơi tù chính trị và hình sự ở lẫn với nhau để làm lao động. Sau khi ra tù tôi có đặt câu hỏi với những người tù cùng một vụ với tôi vốn đã bị thực dân Pháp giam giữ trong thời thuộc Pháp vì tội hoạt động cách mạng: nhà tù nào khắc nghiệt hơn? Câu trả lời là: nhà tù Việt Nam cộng sản khắc nghiệt hơn.

Đói, rét, là chuyện bình thường. Cái tệ hại hơn cả là người ta tìm cách huỷ diệt chí khí và trí não của người tù bằng cách bắt người tù ngồi đấy suốt năm này sang năm khác trong bốn bức tường, không được đọc, không được viết, không có tiếp xúc với nhân quần, không được biết ngày trở về.

Trong tù tôi luôn hỏi các cán bộ chấp pháp: bao giờ họ hỏi cung xong để đưa chúng tôi ra toà? Không có một câu trả lời. Tới năm thứ sáu thì họ bảo: tội của tôi không đáng đưa ra xử, kể từ nay tôi sẽ bị tập trung cải tạo. Điều đó có nghĩa là cuộc hỏi cung tôi kéo dài tới 6 năm, và tôi sẽ còn ở tù lâu, cứ 3 năm sẽ có một lệnh mới, cho đến khi người ta cho rằng tôi đã “cải tạo tốt”. Trong các nhà tù mà tôi đi qua tôi đã gặp nhiều người bị oan ức, có người chỉ vì một câu nói phạm thượng trong lúc say rượu mà ở tù cả chục năm. Tôi đã thấy một người vì đói quá mà ăn mỗi ngày hai tờ báo Nhân Dân xin được của những người có tiếp tế. Vỏ khoai luộc là thứ dạ dày không tiêu hoá được, nhưng nhiều người tù vẫn nhặt ở dưới đất lên để ăn.

Sau khi được thả, người ta cho tôi ký một hợp đồng tạm tuyển làm công nhân bốc vác, sau đó tôi làm nhiều nghề khác nhau nữa để kiếm sống. Trừ nghề viết. Không có một lệnh nào bằng văn bản quy định như thế, nhưng ở mọi tờ báo, ở mọi nhà xuất bản, đã nhận được lệnh miệng, thứ lệnh có hiệu lực hơn bất cứ văn bản nào. Mười năm sau, cho tới thời kỳ gọi là “đổi mới”, tôi mới được phép viết trở lại. Cũng không có lệnh giải toả nào hết. Và cũng không có cả lệnh miệng. Là nhờ một giám đốc một nhà xuất bản dũng cảm dám in bừa, in đại. Cuốn sách của tôi được giải thưởng cao nhất trong một kỳ chọn sách hay cho trẻ em. Như một phép màu.

Trong suốt mười năm ấy, tôi phải sắm vai một công dân ngoan ngoãn, nhưng tôi biết cơ quan mật vụ vẫn theo dõi tôi từng bước. Ý nghĩ về một cuốn sách miêu tả cái xã hội quái gở mà tôi buộc phải sống trong đó không lúc nào rời bỏ tôi. Nhờ biết thông thạo tiếng Nga, tôi được đi theo một đoàn thương mại đến Liên Xô với tư cách phiên dịch, rồi sau đó, nhờ ký được mấy hợp đồng, tôi được ở lại làm đại diện cho một công ty. Cuốn Đêm Giữa Ban Ngày được viết ra trong thời kỳ này. Do bất cẩn, việc tôi viết một cuốn sách chắc chắn là phản động đến tai nhà cầm quyền. Người ta đã tạo ra một vụ trấn lột để cướp bản thảo, tôi bị đâm, bị cướp sạch những gì tôi có. Tôi chạy qua Warszawa, rồi từ đó, khi biết người ta vẫn lần theo dấu vết của mình, tôi nhớ tới lời khuyên của một đại tá KGB (cũ) điều tra vụ trấn lột tôi và biết rõ kẻ trấn lột là ai, tôi tìm đường sang Pháp. Nước Pháp cho tôi quy chế tị nạn chính trị, và tôi hoàn tất cuốn sách bị cướp ở Paris.

Tôi đã không sai lầm khi chọn cuộc sống lưu vong.

Nó không phải cuộc sống tự nguyện, nhưng nó cho tôi điều kiện để viết xong cuốn sách ấp ủ. Tôi coi nó là món nợ phải trả. Đồng bào tôi phải được biết về mặt trái của cái xã hội được coi là đoạn đầu của con đường đi tới miền hạnh phúc viên miễn. Nền tuyên truyền dối trá, như một thứ thuốc lú, đã làm cho nhiều người mê mẩn, không phân biệt chân giả, quên mất mình là con người có quyền được sống như một con người, chứ không phải một robot chỉ biết tuân lệnh các lãnh tụ tự xưng “vô cùng sáng suốt” và “duy nhất đúng đắn”

Tôi cảm ơn nước Pháp đã cho tôi tá túc. Tôi cảm ơn hai tổ chức International Parliament of Writers và International PEN đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi làm công việc mà tôi muốn được làm là đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì dân chủ hoá xã hội Việt Nam. Công việc ấy chiếm toàn bộ thời gian còn lại của tôi.

Tôi sẽ không quên lòng tốt của những người bạn ở các thành phố mà tôi đã được sống qua: Paris, Strassbourg, Bern, Nuremberg. Nhờ các bạn tôi được hiểu biết thêm rất nhiều về các dị bản của xã hội dân chủ, những mặt mạnh cũng như những chỗ yếu của nó. Kinh nghiệm của những xã hội ấy chắc chắn có ích cho đất nước tôi vào ngày mà nó thoát khỏi vũng lầy phi nhân tính của chế độ độc tài.

Tôi đặc biệt yêu mến Nuremberg, một trong những cái nôi của nền văn hoá Đức. Nhờ nó mà cả nước Đức trở thành gần gụi với tôi. Nhờ nó mà hôm nay tôi không bỡ ngỡ khi được có mặt ở đây giữa các bạn, như giữa những người thân thuộc.

Có vẻ tôi đã nói nhiều về chính trị hơn là cần thiết.

Tôi nghĩ: ở nước tôi hiện nay không thiếu các nhà văn, lại là những nhà văn rất tài hoa nữa, nhưng còn thiếu nhiều công dân ý thức được trách nhiệm của mình. Vì sự thiếu ấy, tôi chọn vị trí công dân.

Xin cảm ơn các bạn đã bỏ thời giờ nghe lời tâm sự của tôi

 

Vũ Thư Hiên

304Đen – Llttm - VV

No comments: